Tàu ngầm lớp Kilo, Nga
Kilo là lớp tàu ngầm quân sự cỡ lớn, vận hành bằng điện - diesel do Liên Xô (sau này là Nga) nghiên cứu, chế tạo. Tàu ngầm lớp Kilo có rất nhiều phiên bản cải tiến. Các tàu thuộc Đề án 636 Varshavyanka là phiên bản tối tân.
Tàu ngầm lớp Kilo. Ảnh: Wikipedia. |
Hải quân Mỹ gọi các tàu ngầm lớp Kilo là “hố đen” do khả năng vận hành êm dưới đại dương. Nó là một trong những tàu điện – diesel hoạt động êm nhất thế giới. Lớp ngói chống dội âm trên vỏ và cánh tàu giúp nó hấp thụ sóng âm sonar, nhằm vô hiệu hóa hệ thống định vị bằng âm thanh của đối phương.
Các tàu ngầm Kilo trong biên chế hải quân Nga được trang bị 8 tên lửa phòng không SA-N-8 Gremlin hoặc SA-N-10 Gimlet (phiên bản xuất khẩu không có vũ khí phòng không), 18 ngư lôi 53-65 ASuW, TEST 71/76 ASW hoặc VA-111 Shkval, rải 24 mìn DM-1. Tàu ngầm Kilo Việt Nam sắp nhận có các ống phóng tên lửa đối hạm 3M-54 Klub-S hay tên lửa hành trình đối đất 3M-14E.
Tàu ngầm lớp Gotland, Thụy Điển
Gotland là lớp tàu ngầm chuyên dụng cho hải quân Thụy Điển do nhà máy đóng tàu Kockums nghiên cứu phát triển. Chúng là tàu ngầm đầu tiên trên thế giới sở hữu hệ thống động cơ đẩy không khí độc lập (AIP), giúp kéo dài thời gian hoạt động dưới nước từ vài ngày lên tới vài tuần. Trước đây, chỉ tàu ngầm hạt nhân mới có khả năng này.
Tàu ngầm lớp Gotland. Ảnh: Wikipedia. |
Tàu ngầm lớp Gotland có chiều dài 60,4 m, chiều rộng 6,2 m, tải trọng choán nước đạt 1.470 tấn khi nổi, 1.574 tấn khi lặn. Con tàu có 2 động cơ điện – diesel MTU và 2 động cơ AIP Kockums v4-275R, giúp nó di chuyển với vận tốc tối đa đạt 37 km/h khi lặn. Ngoài ra, nó còn mang theo 4 ống phóng ngư lôi cỡ nòng 533 mm, 2 ống phóng ngư lôi cỡ nòng 400 mm và 48 quả mìn.
Tàu ngầm lớp Scorpene, liên doanh Pháp – Tây Ban Nha
Scorpene là lớp tàu ngầm điện – diesel tấn công do Pháp và Tây Ban Nha hợp tác phát triển. Nó có chiều dài 61,7 m, 70 m hay 75 m tùy thuộc các phiên bản. Con tàu có thể vận hành bằng điện – diesel, ắc quy hoặc hệ thống động cơ đẩy không khí độc lập (AIP). Vận tốc tối đa của tàu đạt 37 km/h khi lặn. Thời gian lặn tối đa của chúng lên tới 21 ngày.
Tàu ngầm lớp Scorpene. Ảnh: Wikipedia. |
Ra đời nhằm mục đích tấn công, các tàu ngầm lớp Scorpene mang theo 6 ống phóng ngư lôi cỡ nòng 533 mm, với cơ số vũ khí lên tới 18 ngư lôi hạng nặng Black Shark hoặc tên lửa chống hạm SM.39 Exocet hay 30 quả mìn nhằm phong tỏa hàng hải.
Tàu ngầm lớp Type 212 của Đức
Là lớp tàu ngầm phi hạt nhân tiên tiến hàng đầu thế giới do tập đoàn Howaldtswerke-Deutsche Werft AG phát triển cho hải quân Đức và Italy, Type 212 có động cơ điện – diesel và hệ thống động cơ đẩy không khí độc lập (AIP). Khi sử dụng động cơ AIP, chúng gây ra tiếng ồn rất thấp và thời gian lặn có thể lên tới 3 tuần.
Tàu ngầm lớp Type 212. Ảnh: Naval-technology. |
Tàu ngầm lớp Type 212 có chiều dài 56 m với tải trọng choán nước lặn đạt 1.830 tấn. Trong những lần thử nghiệm, chúng có thể lặn tới độ sâu 700 m. Chúng mang 6 ống phóng ngư lôi cỡ nòng 533 mm, cho phép triển khai 13 ngư lôi DM2A4, A184 Mod.3, Black Shark hay tên lửa phòng không – chống hạm IDAS, hoặc 24 mìn phong tỏa hàng hải.
Tàu ngầm lớp Lada, Nga
Lada là lớp tàu ngầm điện – diesel tối tân, do Cục thiết kế Hàng hải Trung ương Rubin, Nga nghiên cứu chế tạo. Chúng được nâng cấp rất nhiều so với các tàu ngầm lớp Kilo, giúp chúng vận hành êm cùng hệ thống chiến đấu mới và động cơ đẩy không khí độc lập (AIP). Tàu ngầm lớp Lada ra đời nhằm bảo vệ các bến cảng, căn cứ quân sự, những tuyến hàng hải huyết mạch hay tuần tra trên biển.
Tàu ngầm lớp Lada. Ảnh: Wikipedia. |
Tàu ngầm lớp Lada dài 72 m, tải trọng choán nước đạt 2.700 tấn khi lặn. Nó mang theo 6 ống phóng ngư lôi cỡ nòng 533 mm nằm ngang hoặc các ống phóng tên lửa thẳng đứng, cho phép triển khai 21 ngư lôi 18 SSM, tên lửa hành trình 3M-54 Klub-S và tên lửa đối hạm Novator Alfa, Oniks hay RPK-7 Veter.