Trieste II là tàu ngầm lặn sâu nhất thế giới những năm Chiến tranh Lạnh. Ảnh: Wikipedia |
Theo National Interest, giữa năm 1960, Mỹ phóng thành công vệ tinh do thám quân sự đầu tiên của thế giới trong chương trình Corona. Vệ tinh chụp ảnh các khu vực quan trọng trên trái đất, chủ yếu ở Liên Xô nhằm giúp Washington tìm hiểu thực lực quân sự của Moscow.
Sau khi cuộn phim được sử dụng hết, vệ tinh sẽ phóng khoang hàng chứa phim về trái đất. Một chiếc dù sẽ tự động mở ra khi nó rơi đến độ cao lập trình sẵn. Không quân Mỹ có một phi đội máy bay chuyên thu hồi các kiện hàng khi nó ở trên không. Tuy nhiên, không quân đã thất bại trong lần thu hồi cuộn phim mang mật danh KH-9 ngày 15/6/1971.
Kiện hàng chứa các dữ liệu hình ảnh rất quan trọng, nếu rơi vào tay Liên Xô có thể khiến chương trình do thám không gian và những công nghệ phim, máy ảnh bí mật của Mỹ bị lộ. Kiện hàng chìm ở độ sâu khoảng 4,8 km dưới đáy biển, việc thu hồi nó trở thành sứ mệnh quan trọng của quân đội Mỹ.
Hải quân Mỹ quyết định sử dụng tàu ngầm bí mật Trieste II để trục vớt khoang chứa phim. Con tàu từng tham gia cứu hộ thảm họa tàu ngầm nguyên tử USS Thresher năm 1963 và USS Scorpion năm 1968, hay tìm kiếm bom khinh khí mất tích năm 1966.
Ở thời điểm đó, Trieste II là phương tiện duy nhất có thể lặn đến đáy biển. Nó được phát minh bởi nhà hải dương học người Pháp Auguste Picard năm 1950. Sau đó, nhà máy đóng tàu Mare Island, Mỹ đã sửa lại thiết kế gốc và áp dụng một số vật liệu, công nghệ đặc biệt cho phép tàu có thể chịu áp lực nước ở độ sâu lên đến vài nghìn mét. Trong những lần khám phá đại dương, Trieste II từng lặn đến độ sâu tới 6.100 m.
Sứ mệnh cứu hộ chưa từng có
Tàu ngầm Trieste đã lập kỳ tích khi cứu hộ thành công ở độ sâu gần 5 km dưới đáy đại dương. Ảnh: Wikipedia |
Hải quân Mỹ phối hợp cùng công ty Kodak, nhà chế tạo cuộn phim sử dụng ngoài không gian nhằm đánh giá khả năng tồn tại của phim trong điều kiện ngâm nước với áp suất cao. Nhà sản xuất cam kết rằng, cuộn phim có thể an toàn trong những điều kiện khắc nghiệt nhất. Tuy nhiên, việc cứu hộ ở độ sâu 4,8 km là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại thời điểm đó.
Nhằm phục vụ sứ mệnh đặc biệt, Hải quân Mỹ đã thử nghiệm trục vớt ở độ sâu 1,2 km ngoài khơi San Diego nhưng không thành công. Tuy vậy, người ta vẫn quyết định tiến hành nhiệm vụ. Hai tàu chuyên dụng chở tàu ngầm và các phương tiện hỗ trợ đến vùng biển Oahu ngoài khơi quần đảo Hawaii, đây là nơi hệ thống định vị phát hiện vị trí kiện hàng.
Thời tiết xấu khiến nhiệm vụ phải trì hoãn nhiều lần. Trong khi đó, Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) tỏ ra lo lắng về khả năng Liên Xô có thể tìm thấy cuộn phim trước Mỹ. Các chuyên gia hải quân dự đoán, Liên Xô có khả năng trục vớt các đối tượng ở độ sâu tới 10 km. Không quân và CIA chỉ đạo đơn vị làm nhiệm vụ chạy đua với thời gian để thu hồi kiện hàng sớm nhất có thể.
Ngày 25/4/1972, một năm sau khi KH-9 chìm xuống đáy đại dương, 2 sĩ quan điều khiển tàu ngầm Trieste II hướng xuống đáy biển. Sau 2 giờ, tàu xuống đến độ sâu 4,99 km, họ bật định vị thủy âm và phát hiện đối tượng hình trụ bị chôn trong bùn gần một nửa.
Ê kíp mất đến 30 phút để điều khiển cánh tay máy phía trước kẹp kiện hàng và trồi lên mặt nước. Tuy nhiên, khi tàu đang nổi lên, khoang chứa vỡ đôi khiến cuộn phim bung ra ngoài. Toàn bộ dữ liệu hình ảnh bên trong bị phá hỏng do tác động của nước biển và ánh sáng.
Mỹ đã không thể phục hồi dữ liệu từ KH-9, nhưng sứ mệnh là thành công lớn về mặt khoa học. Hải quân Mỹ đã chứng minh rằng, con người có thể trục vớt các vật thể chìm dưới đại dương ở những khu vực sâu nhất.