Đại chiến trên sông Bạch Đằng
Năm 938 đánh dấu sự kiện lịch sử đối với dân tộc Việt Nam khi Ngô Quyền lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận đại chiến trên cửa sông Bạch Đằng lừng lẫy. Giành lại độc lập cho dân tộc sau hơn 1.000 năm bị phương Bắc đô hộ, trận chiến trên sông Bạch Đằng còn mở ra thời kỳ độc lập lâu dài của dân tộc Việt Nam.
Mô tả trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938. |
Trước những chiến thuyền hùng mạnh của kẻ thù, Ngô Quyền đã chỉ đạo quân và dân đóng cọc gỗ bịt sắt nhọn xuống lòng sông Bạch Đằng, nay là một con sông chảy giữa thị xã Quảng Yên, Quảng Ninh và huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng, cách vịnh Hạ Long, cửa Lục khoảng 40 km. Khi nước triều lên, tất cả cọc bị nước nhấn chìm, khiến kẻ địch không thể phát hiện.
Lừa chiến thuyền của kẻ địch tiến vào bãi cọc đúng thời điểm nước triều rút, tất cả chiến thuyền của quân Nam Hán đều bị phá hủy và chìm xuống đáy nước. Chỉ huy quân Nam Hán là Hoàng tử Lưu Hoằng Tháo cùng quá nửa binh sĩ bị giết trong trận đại chiến trên sông Bạch Đằng lịch sử. Không chỉ giúp bảo vệ non sông đất nước, Hải chiến sông Bạch Đằng còn mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ cho đất Việt.
Trận chiến trên dòng sông Như Nguyệt
Trận Như Nguyệt là trận đánh lớn, diễn ra ở một khúc trên sông Như Nguyệt (hay sông Cầu) vào năm 1077. Là trận đánh quyết định cho cuộc chiến tranh Tống – Việt. Chiến thắng trên sông Như Nguyệt khiến triều Tống của Trung Quốc không dám cất quân xâm lược, buộc phải thừa nhận Đại Việt là một quốc gia độc lập.
Mô tả phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. |
Trận chiến trên sông Như Nguyệt do danh tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy. Trước binh lực hùng mạnh của kẻ thù, Lý Thường Kiệt chọn chiến lược phòng thủ. Chọn khu vực phía nam sông Cầu để quyết thủ, Lý Thường Kiệt đã ra lệnh xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt để biến nơi đây thành trận địa quyết định của cả cuộc chiến.
Sau thời gian dài không thể tiến về Thăng Long, kinh đô Đại Việt, quân Tống lâm vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Thất bại liên tiếp, nhiều quân sĩ chết vì dịch bệnh cùng việc bị quân của Lý Thường Kiệt toàn lực tấn công, quân Tống buộc phải rút về nước. Chiến thắng của Lý Thường Kiệt được xem là chiến thắng lớn nhất kể từ sau trận Bạch Đằng năm 938 của dân tộc Việt.
Ba trận đại chiến chống quân Nguyên Mông
Khi đế chế Mông Cổ lê vó ngựa khắp thế giới, đội quân hùng mạnh của Thành Cát Tư Hãn nhanh chóng thôn tính một diện tích rộng lớn ở châu Á và châu Âu. Cháu nội Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt đã lập ra triều đại nhà Nguyên ở Trung Quốc. Từ năm 1257 tới 1288, quân Nguyên Mông tổ chức ba đợt tấn công lớn nhằm thôn tính Đại Việt.
Trước 3 lần tấn công của quân Nguyên Mông trong các năm 1257-58, 1284-85 và 1287-88, quân và dân nhà Trần, dưới sự chỉ huy của danh tướng Trần Hưng Đạo, đã liên tiếp đánh bại quân xâm lược Nguyên Mông, bảo vệ toàn vẹn độc lập chủ quyền của nhà nước Đại Việt. Với chiến thuật “vườn không nhà trống”, quân Nguyên Mông hùng mạnh rơi vào cảnh thiếu lương thực để rồi sau đó bị đẩy lùi nhanh chóng.
Trong trận chiến cuối cùng, quân Nguyên Mông dễ dàng giành chiến thắng khi mới tiến đánh Đại Việt. Tuy nhiên, do không thể lấy được lương thực từ người dân địa phương nên đạo quân lớn nhanh chóng lâm vào tình cảnh đói khát, mệt mỏi. Khi bị phản công, quân Nguyên Mông hoàn toàn không có cơ hội đáp trả. Cánh quân thủy bị tiêu diệt hoàn toàn tại tử địa Bạch Đằng, nơi quân Nam Hán từng bị Ngô Quyền tiêu diệt.
Trận Chi Lăng – Xương Giang
Là sự kiện mang tính quyết định trong cuộc chiến chống ách đô hộ của nhà Minh, Trung Quốc, Trận Chi Lăng – Xương Giang, diễn ra từ ngày 8/10 đến ngày 3/11/1427, giúp nghĩa quân Lam Sơn giành chiến thắng quyết định trước kẻ thù, đập tan ách đô hộ của phương Bắc. Với đội quân ban đầu chỉ vài ngàn người, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn không ngừng lớn mạnh, đập tan ách thống trị của nhà Minh với hàng chục vạn binh sĩ.
Lê Lợi. |
Năm 1426, khi quân Lam Sơn vây hãm đạo quân của Vương Thông ở Đông Quan, nhà Minh quyết định phái hai đạo quân lớn sang Việt Nam giải cứu. Với đạo quân viện binh lên tới 20 vạn người, nghĩa quân Lam Sơn liên tiếp tổ chức đánh hạ quân địch. Lần lượt các tướng nhà Minh đều bị tiêu diệt, trong đó có Liễu Thăng, chỉ huy 10 vạn quân.
Còn nữa