Cánh đồng làng là nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm của tuổi ấu thơ. Ảnh: Công lý. |
Tôi chỉ có một cánh đồng để nhớ, đó là cánh đồng làng Đông. Quê tôi không có đồng, chỉ có dăm ba thửa ruộng, còn lại là sông và cát. Đến khi nhà tôi sơ tán lên làng Đông năm 1965, tôi mới thực sự biết đến cánh đồng.
Cánh đồng làng Đông rất lạ. Ở cái nơi bán sơn địa của miền Trung, đầu kê núi chân gác cát, lại có cánh đồng màu mỡ, giống như một cánh đồng Nam Bộ còn lưu lại sau cuộc di rời đất và nước vô tận của tạo hóa. Có bãi tràm và rặng trâm bầu, có mai vàng và lúa trời, còn cả cá ngập nước và chim trời.
Khi lớn lên, đọc đi đọc lại Đất rừng phương Nam, gặp được cụ Đoàn Giỏi, ngồi nói chuyện với cụ trong quán cóc đường Bà Triệu, tôi kể cho cụ nghe về cánh đồng quê tôi, cụ trố mắt ngạc nhiên, chép miệng nói đi nói lại, lạ vậy ha… lạ vậy ha?
Đồng làng Đông chỉ là một phần của cánh đồng mênh mông của bốn làng Phù Lưu, Trung Thuần, làng Đông, làng Xá. Nó rộng đến nỗi đi một vòng quanh đồng phải mất trọn một ngày. Ấy là đi nhanh, nếu thong thả rong chơi cũng phải hết ba ngày. Mặt trời mọc từ sau rặng trâm bầu kéo dài từ làng Đông đến làng Pháp Kệ và lặn ở phía cuối cánh đồng, sau dãy đồi đầy sim và ổi làng Trung Thuần. Thế giới tuổi thơ tôi là vậy. Giống như mọi đứa trẻ làng Đông khác, thế giới của tôi chỉ có ngôi làng và cánh đồng, chỉ có vậy thôi mà đi hoài không hết, sống hoài không chán.
Tập tản văn Nhớ mùa sim chín của nhà văn Nguyễn Quang Lập. Ảnh: NXB Kim Đồng. |
Tôi đã sống trọn vẹn cả tuổi thơ với cánh đồng làng Đông, từ tuổi lên mười đến tuổi hai mươi, từ thuở con gái, con trai cởi truồng nhảy xuống bờ mương bơi lội tung tăng, đến khi ngắt một bông hoa rau muống đặt vào tay bạn gái đêm trăng non vàng ửng. Mới đó đã hơn ba mươi năm. Hơn ba chục năm xa đồng, mải mốt làm ăn không mấy khi nhớ, đến khi già rồi chẳng còn đi đâu được, lắm khi ngồi một mình ngoảnh mặt về quê, lúc ấy mới da diết nhớ đồng.
Tôi nhớ màu lúa non xanh mướt, màu lúa chín vàng rộm, màu rơm rạ hươm vàng và màu trắng phau những đàn cò trên những bờ mương, những cồn đất. Trong gần hết các giấc chiêm bao của tôi, dù có xảy ra ở đâu tôi cũng thấy trời cao xanh ngắt, bình minh rực hồng, hoàng hôn chín đỏ, trăng vàng chanh rải khắp cánh đồng, ấy là màu tuổi thơ tôi được hưởng.
Và mùi nữa, trong các giấc chiêm bao của tôi cũng có mùi. Mùi ngọt thanh sáng sớm, mùi khê cháy buổi trưa, mùi hoi nồng chiều tối. Đêm về, hầu như các mùi đều kết tủa hoặc bay đi đâu mất, chỉ còn mùi vỏ chanh, mùi bưởi ngây ngất chìm nổi dưới ánh trăng và bóng cây tình tứ.
Tất nhiên không thể thiếu những âm thanh. Tiếng chim không bao giờ ngưng nghỉ, rộn lên suốt ngày đêm, khi cả cánh đồng đã chìm trong giấc ngủ thì tiếng bìm bịp gọi bầy, tiếng cuốc gọi bạn vẫn không hề tắt.
Có một âm thanh rất lạ, có lẽ khắp miền Trung không nơi nào có, ấy là tiếng cá quẫy. Mùa nước rặc, trong các ruộng lúa đều đầy ắp cá, mỗi dấu chân người đều có cá, chúng thi nhau đánh mình lóc bóc. Vào những buổi chiều yên ắng, khắp cánh đồng nổi lên thứ âm thanh của bộ gõ bị nhúng nước, ai không quen không thể tin nổi đó là bản nhạc cá của cánh đồng.
Lóc bóc lóc bóc khi thưa thớt gần gần xa xa, lời thì thầm bí mật của đồng quê. Lóc bóc lóc bóc khi dậy lên những sóng âm trầm kéo dài miên man, khúc xô-nát đồng hạnh phúc râm ran mùa lúa chín.
Hễ nhớ đồng là nhớ tiếng cá quẫy. Cá làng Đông nhiều lắm, người ta bảo “Cơm làng Xá, cá làng Đông”. Nhiều nhất là cá rô, cá lóc. Đứng trên cống đầu làng thấy chúng nó đi từng đàn đen đặc, Mùa khô làm hố nhảy, tát bờ mương một ngày có thể thu về cả tạ cá.
Mùa nước nổi người lớn cất vó, không một lần cất vó nào không có cá, chỉ cần cất vó một giờ có cả một rổ cá. Trẻ con thì vớt ốc, câu tôm. Ốc bươu làng Đông thơm ngon như ốc bươu Hồ Tây, khi nước về trắng đồng cũng là khi ốc bươu không rõ từ đâu kéo về nổi lênh phênh từng đám dọc rìa làng. Trẻ con tung tăng cầm rổ đi vớt ốc, chỉ trong chốc lát là đầy rổ. Vớt cho vui thôi chứ chẳng mấy ai ăn, tôm cá làng Đông thiếu gì, rồi còn ếch, lươn, cua đồng nữa, nhiều lắm.
Chim chóc làng Đông cũng rất nhiều, rừng trâm bầu sau làng giống như sân chim Cà Mau, có vài chục loài chim thường xuyên trú ngụ nơi đây. Vào mùa trái trâm bầu chín, chim bay về rợp trời, đậu kín trong các vòm cây trâm bầu.
Nếu quăng một mẻ lưới trùm kín một khóm cây thể nào cũng bắt được vài trăm con chim sẻ. Chim đậu đầy những cây trâm bầu, tràn ra cả cánh đồng, chen nhau trong những cây rưới (duối), cây cừa (loại cây có dáng đẹp, tỏa bóng rộng, giống cây sanh).
Nhớ những buổi trưa chui vào dưới cây nằm nghe chim rủ rỉ nói những gì rồi thiếp đi, khi tỉnh dậy thấy toàn thân dính đầy phân chim, vừa tức vừa tức cười. Chuyện chỉ có vậy thôi, thế mà bây giờ nhớ lại chuyện ấy lắm khi không cầm được nước mắt.
[…]