Theo báo cáo của Chứng khoán Yuanta, xuất khẩu của Việt Nam đã bắt đầu chậm lại kể từ tháng 3, mặc dù vẫn tăng trưởng so với cùng kỳ. Điều này đến sau khi lạm phát bắt đầu gia tăng và tỷ giá USD/VNĐ cũng tăng nhanh từ tháng 4.
Xuất khẩu sang các thị trường chính như Mỹ đã chậm lại rõ từ tháng 7 với một số ngành hàng giảm mạnh gần đây như sắt thép, gạo, chè, hải sản, xơ sợi dệt. Xuất khẩu vào EU cũng chậm lại ở các mặt hàng thép, gỗ, hóa chất, dây cáp.
Còn nhiều áp lực lên VNĐ
Thị trường Trung Quốc đã ghi nhận sự chậm lại từ tháng 4 do nước này tái giãn cách Covid-19. Nhu cầu chỉ bùng phát mạnh trong tháng 8 sau khi mở cửa, tuy nhiên vẫn thấp hơn cùng kỳ. Thị trường ASEAN cũng đã đi xuống kể từ tháng 6.
Chứng khoán Yuanta nhấn mạnh lạm phát ở các thị trường xuất khẩu khiến sức mua giảm. Ngoài ra, CPI các nước này hầu hết cao hơn Việt Nam nên gây áp lực khiến đồng tiền các nước này hầu như giảm sức mua so với Đồng Việt Nam.
Chuyên gia Yuanta tin rằng vẫn có nhiều áp lực khiến VNĐ mất giá so với USD. Ảnh: T.L |
VNĐ cũng thuộc top các đồng tiền giữ giá ổn định, gần như chỉ có USD tăng giá so với VNĐ, song so với mức lạm phát cao 8,3% thì sức mua ở thị trường Mỹ vẫn giảm.
Các chuyên gia phân tích nhận thấy bối cảnh hiện tại vẫn có nhiều áp lực khiến VNĐ mất giá so với USD như nguồn ngoại tệ thu từ xuất nhập khẩu 9 tháng đầu năm khá yếu so với các năm 2018-2020.
Vốn FDI đăng ký suy giảm làm giảm triển vọng nguồn thu ngoại tệ, dù vốn giải ngân vẫn tích cực. Thêm nữa, nghĩa vụ trả nợ công quốc tế trong 9 tháng đầu năm cao hơn cả năm 2021 làm tăng áp lực nhu cầu USD.
Tuy nhiên, Chính phủ vẫn duy trì quan điểm ổn định tỷ giá. Tính từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ước tính đã bán hơn 21 tỷ USD để đảm bảo nguồn cung ngoại tệ, điều này giúp ổn định tỷ giá - vĩ mô nhưng tạo áp lực lên việc xuất khẩu.
Chuyên gia Yuanta tin rằng NHNN vẫn tiếp tục giữ ổn định vĩ mô để tránh xảy ra các cú sốc vĩ mô. Do vậy, nếu USD tiếp tục tăng giá, tỷ giá USD/VNĐ vẫn có khả năng tăng nhưng NHNN sẽ thực hiện các biện pháp để tốc độ tăng là không quá mạnh.
"Các đồng tiền các nước xuất khẩu khác dự kiến tiếp tục mất giá mạnh so với VNĐ vẫn sẽ gây áp lực cạnh tranh về giá lên hàng xuất khẩu của Việt Nam", báo cáo viết.
Tác động lên nhóm xuất khẩu
Đánh giá tác động của lạm phát và tỷ giá lên các ngành xuất khẩu, chuyên gia Yuanta cho rằng nên quan sát tình hình các doanh nghiệp xem các thông tin tích cực/tiêu cực đã phản ánh vào giá cổ phiếu hay chưa.
Các ngành như sắt thép, nông hải sản, gỗ và nội thất, xơ sợi ghi nhận sản lượng xuất khẩu giảm rõ rệt từ vùng đỉnh do ảnh hưởng của lạm phát lên cao và nguồn cung hồi phục.
Với riêng ngành thép, tỷ trọng xuất khẩu cũng không chiếm quá nhiều trong tổng sản lượng sản xuất. Hơn nữa, cổ phiếu ngành thép lại bị điều chỉnh mạnh về mức P/B hấp dẫn như tại đỉnh dịch Covid-19.
Xuất khẩu thép đang suy giảm nhưng không chiếm tỷ trọng quá cao trong cơ cấu bán hàng của ngành thép. Ảnh: Hoàng Hà. |
Trong khi đó, nhóm doanh nghiệp gỗ và nội thất, nông sản và hải sản, vật liệu xây dựng dù xuất khẩu đã suy giảm nhưng định giá các cổ phiếu vẫn chưa rơi về mức thấp lịch sử.
Chiều ngược lại, các nhóm xuất khẩu tốt là ngành hóa chất nhờ thiếu hụt nguồn cung, ngành dệt may nhờ các đơn hàng ký trước, ngành cao su hay giày dép cũng đang xuất khẩu tích cực.
Về định giá cổ phiếu, nhóm hóa chất đang có kết quả kinh doanh tích cực với các mức định giá P/E thấp và P/B không quá cao. Yuanta khuyến nghị có thể xem xét các cổ phiếu riêng lẻ ngành này với tiềm năng giá trong năm sau.
Với nhóm dệt may, các chuyên gia cho rằng định giá hiện ở mức khá thấp (7,35x), khá gần với đáy lịch sử (6,22x). Theo đó, nhà đầu tư có thể xem xét các doanh nghiệp dệt may vẫn có đơn hàng xuất khẩu tốt.
Nhóm nhựa, cao su và sợi tuy có kết quả xuất khẩu tốt nhưng chuyên gia Yuanta nhận thấy định giá P/E hiện vẫn cao hơn giai đoạn 2018-2019. Do đó, nhà đầu tư có thể theo dõi nhóm này bởi giá dầu vẫn ở mức cao.
Nhận định chung về chứng khoán, nhóm phân tích nhận thấy VN-Index đã giảm khoảng 30% từ vùng đỉnh và đang giao dịch tại mức P/E khoảng 11 lần, tương đương chỉ số E/P ở mức quanh 9%, chỉ thấp hơn giai đoạn tháng 10-12/2012.
Mức lợi tức này cao hơn CPI là 4,77% và cao hơn lãi suất liên ngân hàng 3 tháng là 0,55%. Yuanta cho rằng mức định giá hiện tại đã khá thấp, khi các điều kiện vĩ mô cải thiện và lợi nhuận doanh nghiệp quay trở lại tăng trưởng, thị trường có thể sẽ phục hồi do tỷ suất lợi nhuận hấp dẫn.