Năm 2007, cha tôi lâm trọng bệnh. Nhưng ông quyết tâm chữa bệnh với một nghị lực lớn lao. Ông muốn nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Ngày 19/8/2007, cha tôi làm lễ nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Trong buổi lễ đó, cha tôi rút từ trong túi bốn trang A4 viết tay về cuộc đời mình và đọc. Tôi hoàn toàn bất ngờ.
Mang tiếng có một đứa con là nhà văn, nhưng cha tôi chưa bao giờ nhờ tôi viết bất cứ văn bản nào mà cha tôi phải viết. Hơn nữa, lúc nào ông cũng nghĩ tôi sẽ viết sai điều ông muốn. Ông vẫn coi tôi là một đứa con bé bỏng, quá nhiều dại dột và nhiều khiếm khuyết. Nhưng bài phát biểu đó lại làm cho tất cả những người đến dự nghĩ rằng: tôi đã chấp bút cho cha mình.
Cuốn sách Cha và con. |
[...]
Cha tôi là con trai của một người thợ mộc. Những người đàn ông trong gia đình ở các thế hệ trước cha tôi không bao giờ sống được qua tuổi 53. Khi cha tôi tròn 70 tuổi, ông mừng lắm. Nhưng ông cương quyết không làm thượng thọ. Ông bảo làng xóm còn nghèo mà mình lại cỗ bàn ăn uống thì thật không nên. Rồi ông chỉ cho tôi ba chữ Nho trong nhà tôi do ông nội tôi viết và bảo nghĩa của ba chữ đó là vui trong tĩnh lặng. Lúc đó, tôi chưa thấm được tinh thần của ba chữ đó. Phải ngoài tuổi 40 tôi mới thấu được lẽ đời ấy.
Ông nội tôi đã hình dung ngôi nhà trong mười năm và cuối cùng dựng lên ngôi nhà đó. Trước khi mất, ông nội tôi dặn cha tôi hai điều: Không bao giờ được làm bất cứ điều gì ác và không được bán ngôi nhà dù nghèo đói đến đâu. Cha tôi đã thực hiện được hai điều đó. Trước khi mất, cha tôi lại dặn anh em tôi đừng bán bất cứ một mẩu đất nào mà ông cha để lại. Cha tôi bảo con người đã bán đất để ăn thì sẽ chẳng bao giờ làm nổi việc gì nữa và như vậy là đến thời mạt vận.
Tôi còn nhớ nhiều năm về trước, trong một đêm trăng khuya khoắt của làng quê, hai cha con tôi ngồi uống trà ngoài sân. Trong những cơn gió thổi về, tôi nghe tiếng cuốc từ cánh đồng xa buồn bã. Lâu lắm rồi tôi mới lại nghe tiếng cuốc. Có những năm tháng dài, những con cuốc không biết đi đâu. Tôi hỏi thì cha tôi bảo người ta săn bắn chim chóc nhiều quá đến chẳng còn một con nào. Nhưng đêm ấy, tôi lại được nghe cuốc kêu. Tiếng cuốc kêu đều đều suốt đêm. Kêu như lời của một kẻ tri âm. Kêu như một nỗi buồn đau dằng dặc. Kêu như đang xé từng mảnh phổi của mình. Kêu như những bước chân tiến dần về cái chết. Kêu như nỗi oan ức của mọi thời đại. Và kêu...
Cha mẹ nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong đám cưới con trai. |
Hai cha con tôi ngồi im lặng trong đêm trăng của làng quê. Bỗng cha tôi nói: “Nếu sau này mấy anh em con có tiền thì xây một chái nhà lên hai ba tầng. Thành phố loạn lạc thì vợ chồng con cái về làng mà ở. Nếu nước lớn thì có nơi mà chạy nước. Anh em con cố mà làm cho sớm, con ạ”. Tôi cảm thấy một luồng khí lạnh tràn qua người tôi. Cha tôi đã tham gia cách mạng nhiều năm nhưng bản chất ông vẫn là một người nông dân. Cha tôi không có ngôn ngữ ấy. Cái ông thường xuyên nói, nói cả đời một cách giản dị là đạo làm người.
Những gì ông nói từ trước đến giờ không ngoài những việc cụ thể hàng ngày và với những người cụ thể trong làng, trong họ và trong gia đình. Câu nói của cha tôi đêm ấy là một thông điệp. Ai đó từ chốn cao xanh đã mượn cha tôi, một người già tám mươi tuổi để truyền đi thông điệp ấy chăng? Sẽ có một thay đổi lớn lao hay một sự bất trắc khủng khiếp trong đời sống của chúng ta chăng? Có, tôi tin là có. Con người sẽ phải chịu những hậu họa khủng khiếp do chính con người gây ra.
[...]
Hai tháng trước ngày cha tôi mất, ông đã viết cáo phó cho chính mình. Khi cha tôi đưa bản cáo phó viết tay để tôi đánh máy và đưa đi in, tôi thực sự hoảng sợ. Tôi đã không dám đánh máy một chữ nào. Trong bản cáo phó viết tay của cha tôi có đoạn: “Cụ Nguyễn Gia Thâu đã từ trần hồi 8 giờ sáng... thọ 88 tuổi”. Và cha tôi mất lúc 8 giờ 5 phút sáng. Từ trước đó, cha tôi đã sai các chị em tôi mua những thứ cần thiết cho tang lễ của ông như vải vóc, nến, bát đũa... và ông muốn tận mắt nhìn thấy và kiểm tra những thứ đó được chuẩn bị như thế nào.
Cha tôi nhờ một người con rể mua sẵn cho ông cả khung ảnh thờ. Cha tôi chuẩn bị kỹ lưỡng cho sự ra đi của mình. Cha tôi bảo: “Sống phải đàng hoàng và chết càng phải đàng hoàng hơn con ạ”. Cha tôi dặn tôi nhiều lần rằng nếu ai đó viết điếu văn cho ông thì không được viết những lời to tát. Và lần nào cha tôi cũng nói: “Phải khiêm tốn con ạ. Đã kiêu ngạo thì nghĩa là chưa hiểu biết đến nơi đến chốn”.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. |
Giờ đây, cha tôi đã về đến cõi thiên thu. Trong thời gian bệnh nặng, cha tôi nói về cái chết một cách thanh thản như một chuyến đi công tác lâu ngày của ông trước kia. Cha tôi biết con cháu ông sợ hãi và đau đớn khi nghĩ đến ngày ông rời xa chúng tôi mãi mãi. Bởi thế ông thường nói với tôi: “Bây giờ bố có thể chết được rồi. Bố đã làm xong phận sự của mình và không phải ân hận điều gì. Sống như thế mà chết thì sao lại phải đau buồn”.
Tôi hiểu được lời cha tôi - một người đã bước đến sát ranh giới của thế giới bên kia đang an ủi và dạy dỗ cho một người đang sống. Nhưng tôi vẫn chỉ là một đứa trẻ đầy dại dột và đầy khiếm khuyết vẫn chiều chiều đợi cha tôi đạp chiếc xe đạp Thống nhất tróc sơn trở về từ phía dốc đê làng.