Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Người thầy không còn nhớ ngày 20/11

Tôi xin được viết về người thầy từng biết về lễ 20/11 nhưng bây giờ không còn có thể nhớ về ngày này nữa.

Có thể rất nhiều thế hệ sinh viên của Đại học Y Huế năm nào cũng còn nhớ đến bà: Bác sĩ Sperling. Hình như lần đầu tôi gặp bà là lúc học năm thứ tư và lần đầu tiên đi lâm sàng Nhi khoa. Tuy nhiên, bà đã nhiều lần về Việt Nam trước đó để giảng dạy và làm việc. Vốn có chút ngoại ngữ, tôi hay nhanh nhảu trả lời các câu hỏi của bà. Vậy là bà chú ý.

Thời đó, được một chuyên gia nước ngoài chú ý động viên quả là một sự khích lệ và nguồn năng lượng vô giá. Lúc tôi xong chương trình lâm sàng Nhi năm thứ sáu, bà có gọi riêng tôi hỏi về dự định tương lai.

Tương lai ư? Lúc đó quả là mù mịt với một đứa như tôi. Những năm 1997-1998, có được việc làm sau khi ra trường quả là điều không tưởng với một sinh viên không tiền và không thân thế.

Bà hỏi khéo liệu tôi có đi thi Nội trú Nhi hay không. Rồi bà nhắn nhủ rằng dù có đi theo chuyên ngành nào, tôi cũng phải hứa là sẽ cố gắng trở thành giảng viên. Chính bà là người đầu tiên nói rằng tôi có năng khiếu truyền đạt (bà chỉ nhìn vào cách mà tôi phiên dịch khi bà dạy các lớp Y4 và chuyên tu).

Sach May trang bay qua buc giang anh 1

Sách Mây trắng bay qua bục giảng. Ảnh: Q.M.

Khi tôi làm Bác sĩ Nội Trú Nhi, bà vẫn còn sức khỏe để sang giảng dạy một năm khoảng một tháng. Lúc ấy, bà rất nghiêm khắc với tôi. Nhớ có lần đứa bạn cùng lớp cũ làm buổi giới thiệu sữa, tôi đi phát tờ rơi cho sinh viên bị bà bắt gặp. Bà mắng tôi xối xả.

Có lúc, tôi mang bệnh nhân ra chọc dịch màng tim mà không có siêu âm (dĩ nhiên thời đó siêu âm đâu có ở khoa, trừ cái máy cổ lỗ sĩ ưa thì lên hình, ưa thì không), bà cũng căn vặn tôi mướt mồ hôi.

Hình như niềm đam mê với siêu âm tim trong tôi cũng đã được nhen lửa từ người thầy giáo cực kỳ nghiêm khắc này. Tuy nhiên, những lúc ấy, tôi rất “ngán” bác sĩ Sperling vì bà cứ truy vấn đến tận cùng mọi kiến thức và cách tiếp cận chẩn đoán và xử trí trước một bệnh nhân.

Mỗi lần sang công tác, bác sĩ Sperling gần như gọi tôi bất kỳ lúc nào và tôi chẳng biết lúc nào cũng trở thành chiếc bóng của bà. Có một buổi trưa, bà đến thăm căn phòng nội trú của tôi, vốn là chân một cầu thang của khoa Nhi, trước đây dùng làm nơi mổ xác, sau đó ngăn tạm bợ lại thành phòng ở của bác sĩ nội trú.

Bà đến, đứng lặng người, nhìn quanh rồi ra. Trong ánh mắt cố giấu của bà, tôi thoáng thấy có gì như loáng nước. Chiều hôm đó, ngồi trong phòng siêu âm với tôi có cô Ngân, Chủ nhiệm Bộ môn Nhi lúc bấy giờ, bà nói: “Ở chỗ các bạn, những ai học giỏi thì người đó bị đày đọa. Đúng không?”

Cả tôi và cô Ngân đều ngớ người không hiểu. Bà vừa buồn, vừa có ánh tinh nghịch giải thích: “Khôi nó phải học giỏi mới đủ tiêu chuẩn thi Nội trú. Cũng phải giỏi mới thi đậu Nội trú. Giờ thì nó quần quật suốt ngày đêm 24/7 trong bệnh viện mà phải ở chân cầu thang, không có lương, sống nhờ điều dưỡng. Bạn nó, chắc học kém hơn, đi làm trình dược, quần áo bảnh bao tươi tốt. Không phải học giỏi thì bị đày đọa là gì?”.

Lúc đó, tôi và cô Ngân mới hiểu cái ý châm biếm có phần chua chát xen lẫn buồn thương của bà.

Cô Ngân bảo: “Nhưng mà mai mốt Khôi sẽ có giá, sẽ có được chỗ làm tốt ở các bệnh viện lớn”. Bà quay sang nhìn tôi vừa như ra lệnh, vừa như cầu xin: Làm gì thì làm, phải cố gắng trở thành giảng viên đại học hoặc chí ít cũng làm việc ở một bệnh viện có giảng dạy.

Lúc đó, tôi gật đầu. Bà biết tôi chưa ý thức được cái hệ trọng trong lời nói của bà nên bảo sẽ gặp sau, vào một ngày trước khi bà về nước.

Sach May trang bay qua buc giang anh 2

Tác giả bài viết, PGS.TS, bác sĩ Lê Minh Khôi (bên trái) trong buổi ra mắt sách Những sườn núi lấp lánh.

Sau mấy năm, lúc tôi đi Đức, gặp giáo sư, tôi mới biết bà đã lặng lẽ viết thư giới thiệu tôi với Cơ quan Trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD) ở Hà Nội cũng như ở Bonn.

Bà biết về tôi nhiều hơn cả tôi nghĩ. Biết từ tuổi thơ thiếu đói, biết đến những vất vả thời sinh viên (lúc đi dạy thêm kiếm tiền, đi thi lấy chứng chỉ ngoại ngữ cho những đàn anh cần có tấm bằng để về báo cáo với tổ chức) và cả những cố gắng, ước vọng của tôi thời nội trú. Thư của bà, tôi vẫn còn giữ (tôi xin giáo sư photo lại vì bà không bao giờ nói cho tôi biết là bà giới thiệu).

Mười năm sau đó, khi đã hoàn thành chương trình học tiến sĩ rất lâu và sau khi trở thành giảng viên của một trường đại học Y có truyền thống của Việt Nam, tôi trở lại nước Đức và quyết tâm đi tìm, thăm bà.

Lúc này, bà đã không đủ sức khỏe để sang Việt Nam nữa. Lần tìm hoài không có địa chỉ liên lạc vì gửi email bà không hồi âm, tôi đành liên lạc về với anh đồng nghiệp bên nhà.

Và biết rằng..

Bà đã vào trại dưỡng lão. Buồn hơn khi biết bà mắc chứng Alzheimer rất nặng. Dr. Sperling năm nào không còn có thể nhận ra ai khác ngoài đứa con nuôi duy nhất của bà. Lần đó, khi nhận tin, tôi đã khóc một mình giữa mùa đông Munich.

Và cứ mỗi lần được nhận lời chúc mừng hay gửi lời chúc mừng ngày 20/11, tôi vẫn luôn nhớ đến bà. Sự tàn phá của chứng bệnh Alzheimer chắc chắn đã xóa đi tất cả kỷ niệm về Việt Nam, trong đó có những tháng năm tại Huế, trong ký ức Dr. Sperling (tiếng Đức nghĩa là chim sẻ).

Nhưng tôi thì không bao giờ quên. Một người thầy, một Mentor, một người định hướng nghề nghiệp. Việc trở thành giảng viên và mãi mãi là giảng viên, đến chừng nào sức khỏe và đầu óc cho phép, cũng là một lời hứa tâm linh của tôi đối với bà.

Bà có thể quên tôi. Nhưng tôi không bao giờ quên bà và quên lời hứa với bà ở quán nước xập xệ trong Bệnh viện Trung ương Huế ngày đó.

Nhà văn Lê Minh Khôi sinh năm 1973 tại Quảng Ngãi. Ông là PGS.TS, bác sĩ chuyên khoa tim mạch và hồi sức. Ông là giảng viên Đại học Y Dược TP.HCM. Tác phẩm đã xuất bản: Những sườn núi lấp lánh.

Lê Minh Khôi / NXB Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM và Công ty Văn hóa Huyền Đức

SÁCH HAY