Mối tình sống cùng năm tháng
Người phụ nữ có khuôn mặt phúc hậu, bàn tay run run vuốt lại chiếc mũ tai bèo, gấp lại chiếc áo bộ đội đã cũ, kỷ vật của Liệt sỹ Trần Minh Tiến, sinh năm 1945, ở thôn Cầu Đơ, xã Hà Cầu, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội) – người yêu của bà cách đây 46 năm. Người phụ nữ đó chính là bà Vũ Thị Lui (thường gọi Lưu Liên), sinh năm 1946 quê ở thôn Hà Trì, cũng xã với liệt sỹ Trần Minh Tiến. Hiện bà Lui đang sống cùng với chồng tại khu tập thể trường Đại học sư phạm ngoại ngữ Hà Nội.
Bà Vũ Thị Lui cùng kỷ vật của người yêu - liệt sỹ. |
46 năm, những ký ức một thời chiến tranh vẫn còn hiện nguyên trong tâm trí, giọng bà Lui như nghẹn lại khi kể về chuyện tình của mình với liệt sỹ Trần Minh Tiến.
Bà Lui kể, từ nhỏ bà học ở thị xã Hà Đông, khi lên lớp 6, được gia đình cho chuyển về quê để học và từ đó bà và anh Tiến học cùng nhau rồi trở nên thân thiết.
Lớn lên, anh Tiến là một người hát hay, tính tình vui vẻ, ăn nói có duyên, nên được rất nhiều bạn gái yêu thích, khi ấy tình cảm của hai người vẫn chỉ dừng lại ở mức độ bạn bè. Mãi đến khi đi bộ đội anh mới ngỏ lời yêu bà. Năm 1963, anh Tiến nhập ngũ và đóng quân tại trung đoàn 102, sư đoàn 308 (đóng quân tại Tam Đảo).
Gần 5 năm, từ lúc nhận lời yêu, đến khi anh ngã xuống vào rạng sáng ngày 1/6/1968, tại cao điểm 202, đồi Bằng (Tây Làng Cát, xã Đa Krông, huyện Đa Krông, tỉnh Quảng Trị), bà và anh Tiến gặp nhau không quá 20 lần.
“Tình cảm của chúng tôi dành cho nhau khi ấy chủ yếu trân trọng nhau là chính. Những lần lên thăm đơn vị anh, tôi phải đạp xe từ Hà Đông lên Tam Đảo, Vĩnh Phúc, có khi 1h sáng mới về đến đê Yên Phụ, Hà Nội. Tuy xa và vất được gặp mặt người yêu là mừng lắm rồi. Đến 21/1/1968, tôi lên đơn vị thăm anh và chúng tôi quyết định ngày cưới. Anh Tiến nói với tôi, chờ hết tháng 3/1968, nếu không có gì thay đổi anh sẽ về quê tổ chức lễ cưới”, bà Lui buồn bã nói.
Những kỷ vật được trân trọng
Nhớ lời người yêu, bà ở nhà chuẩn bị những thứ cần thiết để định ngày tổ chức lễ cưới. Khi ấy bà Lui đang làm nhân viên hành chính tại nhà máy ươm tơ Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, thấy bà chuẩn bị lễ cưới nên bạn bè đã nhường lại tem phiếu để mua chăn, màn cùng vài mét vài ít vải để bà thêu 2 chiếc khăn tay, một đôi gối cưới. Những lá thư ố vàng, chiếc áo đã bạc màu theo năm tháng, cùng cuốn nhật ký nhỏ bằng bàn tay bà Lui đã giữ gìn cẩn thận, coi như “báu vật” thiêng liêng của mình.
“Mãi đến cuối tháng 3/1968 đơn vị của anh Tiến trên đường đi B, khi tập kết tại thị xã Sơn Tây, biết cơ quan của tôi đang sơ tán ở Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, anh đã đi bộ gần 20 cây số để về thăm tôi”, bà Lui xúc động nói.
Kể đến đây đôi mắt bà phảng phất nỗi buồn, bà kể tiếp: “9h sáng anh đến cơ quan để được gặp tôi, nhưng tôi không tiếp. Đến 2 - 3 tiếng sau, bác bảo vệ cơ quan đã lên phòng làm việc và mắng tôi: Anh Tiến đang trên đường đi B chiến đấu, tranh thủ về thăm em đấy”.
Bà nghẹn ngào, bởi lúc đó bản thân chưa hiểu hết được sự khốc liệt của chiến trường B là như thế nào, đâu biết rằng đây cũng là lần cuối cùng gặp mặt.
"Lúc đó, anh đã giải thích về lý do trước khi đi B không gửi thư cho tôi và lỡ hẹn ngày cưới chỉ vì lý do, anh không muốn trao gánh nặng lên đôi vai tôi, vì anh là con trai cả trong gia đình, bố mẹ lại già yếu, trong khi đó từ nhỏ đến lớn tôi sống trong nhung lụa thì làm sao gánh được. Anh còn bảo tôi, nếu anh mất thì chỉ một mình anh chịu đựng, không muốn ai phải khổ”, bà rơi nước mắt nói.
Chiếc mỹ tai bèo của liệt sỹ Trần Minh Tiến. |
Trước khi chia tay để cùng đơn vị vào chiến trường B, bà Lui đã được người yêu tặng một chiếc áo bộ đội và một chiếc nhẫn có hình hai trái tim lồng vào nhau thay cho vật đính ước, chiếc nhẫn này được người yêu bà làm bằng duy - za từ xác máy bay Mỹ ở Vĩnh Phú, cùng những lá thư và cuốn nhật ký mà người yêu bà đã viết trong những ngày tháng rèn luyện gian khổ trong quân đội trước lúc đi B. Bà cũng tặng anh chiếc khăn tay có hình bông hồng màu tím và tên của mình.
Trước khi đi B, anh dặn, nếu anh không trở về, thì bà hãy giữ cuốn nhật ký và những tấm ảnhđể sau này bố mẹ anh được đọc những dòng tâm sự này và còn nhìn thấy anh.
"Anh Tiến cũng bảo tôi rằng, nếu em nhận được chiếc khăn tay do người khác trao lại, nghĩa là anh đã hy sinh, em hãy đi lấy chồng”, bà nhớ lại lời dặn cuối cùng của người yêu.
8 năm đi tìm mộ người yêu - liệt sỹ
Từ đó bà bặt tin người yêu, mãi đến ngày 19/1/1969, khi gia đình người yêu nhận được giấy báo tử, Trần Minh Tiến đã hy sinh, bà đau khổ và tuyệt vọng. Khi ấy do nông nổi bà đã đem thư và cuốn nhật ký ra đốt, với hy vọng liệt sỹ sẽ nhận được những kỷ vật của mình nơi chín suối, nhưng sau đó nghĩ lại bà Lui vội dập lửa và gìn giữ cẩn thận cho đến bây giờ.
Trước khi vào chiến trường ác liệt, người yêu bà đã đưa chiếc khăn tay và một chiếc mũ tai bèo có gắn quốc huy cho người Đại đội trưởng đơn vị và dặn, “nếu tôi không trở về, anh tìm mọi cách để trả kỷ vật này về cho Lui”. Sau đó chiếc khăn tay mà bà tặng người yêu và những kỷ vật khác của anh đã trở về với bà trong nỗi đau khổ đến tột cùng.
“Khi biết tin anh Tiến hy sinh, tôi vẫn phải nén đau buồn để sang nhà anh đọc lại những lá thư mà liệt sỹ gửi về trước lúc hi sinh cho bố mẹ anh nghe mà nước mắt cứ chảy tràn trên khuôn mặt, vài tháng sau khi anh Tiến hi sinh gia đình mới biết tin”, bà Lui nhớ lại.
Đã hơn 46 năm trôi qua, giờ đây bà Lui đã có 1 gia đình yên ấm và tràn ngập hạnh phúc, nhưng những kỷ vật một thời của liệt sỹ Tiến vẫn được lưu giữ cẩn thận. Sau này lấy chồng bà, là một sỹ quan quân đội, cũng hiểu và rất trân trọng những kỷ vật đó.
Bà kể thêm, do chiến tranh, gia đình phải sơ tán đồ đạc về Quốc Oai, vào khoảng tháng 8/1974, trong một trận lụt, dù có nhiều đồ đạc nhưng chồng bà không mang về mà chỉ đem theo chiếc va li đựng những kỷ vật của liệt sỹ Tiến lên xe đạp từ Quốc Oai về cho bà.
Khi con cái đã khôn lớn, từ năm 2000, bà Lui bắt đầu tìm mộ của liệt sỹ Trần Minh Tiến ở Quảng Trị. Đến năm 2008 sau hàng chục chuyến đi, bà Lui đã tìm thấy nơi liệt sỹ ngã xuống và đưa hài cốt của ông về an táng tại nghĩa trang Đường 9 tại TP Đông Hà, Quảng Trị.
“Khi anh Tiến đi B, tôi đã hứa với anh rằng, nếu chẳng may anh hy sinh trong chiến trường tôi sẽ là người đi tìm để đón anh trở về. Và suốt 8 năm khi con cái trưởng thành, tôi đã đi tìm anh và thật may mắn tôi đã tìm được anh rồi đưa hài cốt về an táng tại nghĩa trang Trường Sơn, lúc đó tôi mới yên lòng”, bà Lui nói.