Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Mối tình của tác giả 'Huế, tình yêu của tôi'

“Trước khi ông mất ít lâu, chị và ông cũng đã gặp lại được nhau, đã có những ngày tay trong tay, mắt nhìn theo mắt, đã có những ngày chỉ nhìn nhau mà trái tim cất tiếng hát”…

Những ngày này ở nhà hưởng ứng giãn cách phòng chống dịch bệnh, tôi thường dành nhiều giờ ngồi bên giá vẽ và thưởng thức âm nhạc. Nghe nhiều không chán những bài hát về Huế, trong đó có Huế, tình yêu của tôi rất hay, bỗng nhớ nhiều đến nhạc sĩ Trương Tuyết Mai, người chị mà tôi luôn trân trọng và yêu thương.

Tôi nhấc máy gọi cho chị ở Sài Gòn và chị em tôi đã nói chuyện nhiều giờ qua điện thoại. Giọng nói dịu dàng ấm áp của chị giúp tôi hình dung ra vẻ yêu kiều vốn có của một người đàn bà đẹp, tài hoa và nhân hậu tôi từng gặp, một người đã đi qua nhiều thăng trầm của cuộc đời mà không giữ một chút oán hận nào, vẫn yêu đời, vẫn nhận thấy nhân ái ở xung quanh và muốn tiếp tục đóng góp tài năng của mình cho cuộc đời ấy.

Tôi ít hơn chị 6 tuổi, còn nhớ 40 năm về trước, tôi từng mong có lần được nhìn chị thật gần, thấy sự dịu dàng của chị và nghe chị kể về những xúc cảm làm nên tác phẩm của chị nhưng thật khó. Lúc đó chị nổi tiếng không chỉ vì là một trong số rất ít những phụ nữ có khả năng sáng tác nghệ thuật, có nhiều bài hát hay, là một trong những con chim đầu đàn của nữ nhạc sĩ Việt Nam, mà còn vì vẻ duyên dáng đằm thắm, chưa kể chị còn là bà mẹ bận bịu với 3 người con đang tuổi học hành.

Mãi đến sau này, trong một buổi ghi hình về những bài hát đi cùng năm tháng, tôi mới gặp chị và trở nên thân thiết.

Cuộc nói chuyện của chúng tôi hôm qua là về những năm tháng ấy. Trong đó, chúng tôi nói về sự bất hạnh của những người đàn bà tài và đẹp, rồi cùng nhau cười vang với một kết luận “bất hạnh nhưng dễ chịu”…

Bất hạnh vì… đẹp

Quê gốc ở Phú Yên, Trương Tuyết Mai thi vào trường nhạc, không ỷ lại là con em miền Nam tập kết, vốn liếng chị mang theo chỉ là lời ru của mẹ, sự ân cần chỉ bảo của cha và một năng khiếu bẩm sinh cùng ước mơ âm nhạc cháy bỏng.

Ngay le tinh nhan anh 1

Nhạc sĩ Trương Tuyết Mai và GS Boudarel.

Ước mơ ấy như một ngọn lửa rực sáng trong tim khiến cho nhan sắc của chị càng thêm mặn mà, có thể thiêu đốt tất cả những gì xung quanh, và điều không thể tránh là chị phải làm mẹ ở tuổi còn rất trẻ, khi mà chị chưa tốt nghiệp trường Âm nhạc Việt Nam thời đó, dường như để chấm dứt những sự theo đuổi của rất nhiều những người yêu… người đẹp.

Nhưng, trước khi quyết định làm vợ và làm mẹ, người con gái duyên dáng Trương Tuyết Mai có một mối tình huyền thoại, mà cho đến bây giờ, nhiều cây bút trong đó có tôi muốn được chuyển thành kịch bản phim (và có thể sẽ hay nhất mọi thời đại) về chuyện tình đó: trong thời buổi chiến tranh còn chưa chấm dứt hoàn toàn trên cả nước, chị đem lòng yêu G. Boudarel - quốc tịch Pháp, người hết lòng yêu Việt Nam, mới tốt nghiệp chuyên ngành Triết tại đại học ở Pháp, một người yêu chính nghĩa, yêu thế giới đại đồng.

Tình yêu bắt đầu từ cái nhìn đầu tiên của hai người trong một quán cơm phố Hàng Bông. Nhưng ngày đó yêu một người ngoại quốc là điều không thể chấp nhận từ mọi góc nhìn của xã hội. Biết thế, nhưng họ vẫn yêu, mặc dù chỉ dám yêu thầm kín. Mỗi một lần gặp là một lần bối rối, một lần đau đớn. Và rồi, thời cuộc với những vấn đề rối rắm và éo le của chính nó, khiến hai người phải chấm dứt cuộc tình, họ mang trong lòng một nỗi buồn câm lặng và chia tay trong tuyệt vọng.

Người đàn bà đẹp lấy chồng, “bỏ lại trái tim của mình ngoài cửa sổ”. Năm 1965, tốt nghiệp, chị về công tác tại Dàn nhạc Đài Phát thanh Giải phóng. Giai đoạn này, vừa làm một nghệ sĩ biểu diễn sáo, chị vừa âm thầm học sáng tác, lại còn muôn nỗi vất vả nhọc nhằn thời bao cấp nuôi con ăn học.

Đàn ông làm nghệ thuật đã khó, đàn bà làm nghệ thuật còn khó gấp bội, hai lợi thế: tài năng và nhan sắc cho chị bao nhiêu thuận lợi thì làm chị khốn khổ bấy nhiêu vì lòng đố kị, cả vì… lòng yêu mà không được chị đáp đền. Những lần hôn nhân “không biết vì đâu mà tan vỡ” như người ta vẫn nói, khiến chị rơi vào tình trạng nuôi con một mình và chèo lái con thuyền gia đình… […]

Chuyện tình chưa chấm dứt…

Cuộc trò chuyện của tôi với chị hôm qua còn nhắc lại kỷ niệm đêm diễn 19/4/2014 nhân chị tròn 70 tuổi, tại nhà hát Bến Thành chủ đề Trương Tuyết Mai - Nửa thế kỷ âm nhạc, rất thành công với sự tham gia của các ca sĩ: NSƯT Cao Minh, Thùy Dung, Triệu Lộc, Hạ Trâm, Nam Khánh, các nghệ sĩ của Nhà hát giao hưởng TP. Hồ Chí Minh, nhóm Áo Lính và con gái Jazzy Dạ Lam của chị... Chị bảo với tôi, thời gian tất yếu làm cho con người già đi nhưng tâm hồn dành cho âm nhạc, thơ ca cũng như tình yêu với người xưa của chị thì không bao giờ vơi cạn. Tôi nhắc đến câu thơ của chị: “Ước gì gói được hương hoa ấy / gửi đến cho người ngàn dặm xa” (Ước).

Nhắc đến “Giọt thầm khoan nhặt nông sâu / nàng ôm đàn hát khúc đau nhân tình” (Khúc đau); “Chỉ còn mỗi trái tim / vẫn tươi trong lồng ngực / vẫn cất lời tin yêu / dẫu mưa chiều nắng sớm” (Chân dung tự họa)… Nhưng chúng tôi nói nhiều về “người tình trăm năm của chị” GS G.Boudarel, người đã từ giã chị, từ giã cuộc đời vào năm 2003 tại Pháp.

Trước khi ông mất ít lâu, chị và ông cũng đã gặp lại được nhau, đã có những ngày tay trong tay, mắt nhìn theo mắt, đã có những ngày chỉ nhìn nhau mà trái tim cất tiếng hát, chỉ yêu thương mà quên đi những oan trái. Họ quên đi cái éo le của số phận [...].

Giáo sư G. Boudarel được hội “những người bạn G. Boudarel” gồm các nhà trí thức tên tuổi trên thế giới quan tâm chăm sóc, lo lắng những năm cuối đời. Trước khi mất ông có di nguyện với bạn bè là tro cốt của ông một phần sẽ được rải tại Pháp, một phần dành cho Việt Nam để rải trên những dòng sông ông từng đi qua (từ chiến khu D ra chiến khu Việt Bắc).

Bình tro ấy hơn 16 năm sau được GS Nguyễn Ngọc Giao, một người bạn đồng môn hồi dạy Đại học Paris 7 giữ gìn, đã về tới Tân Sơn Nhất với sự chờ đón của nhiều mái đầu tóc bạc. Nhạc sĩ Trương Tuyết Mai ra tận nơi, ôm bình tro ấy về nhà vào tháng 1/2020.

Tại nhà, từ lâu nhạc sĩ đã lập bàn thờ cho ông, sau khi cùng mọi người đem rải tro cốt ở ba con sông (sông Bé, sông Hồng và sông Thu Bồn), chị để chiếc hộp đựng tro trên bàn thờ, hàng ngày “trò chuyện” cùng ông.

Ngôn ngữ của cuộc trò chuyện ấy khi là thơ, khi thì nhạc, khi là hương của những đóa hồng.

Câu chuyện của chị khiến tôi xúc động khôn nguôi.

Trần Thị Trường / Alpha Books - NXB Văn học

SÁCH HAY