Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền và sách Ả đào. |
Dẹp tan sương mù
Bùi Trọng Hiền đã có danh trong giới như một chuyên gia về cổ nhạc, nhưng anh thú nhận trước khi thực sự bắt tay vào nghiên cứu cách đây 9 năm, anh nghe ca trù mà không hiểu rất nhiều thứ trong đó.
Các tài liệu Hán Nôm theo anh chỉ để tham khảo, không có giá trị nghiên cứu vì nội dung mâu thuẫn. Riêng về khổ đàn, sách nói có 5, sách khác nói có 6-7 mà không giải thích gì.
Sách nào cũng nói ca trù có 5 cung Nam, Bắc, Huỳnh, Phan, Nao… Nhưng khi anh Hiền hỏi nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ, ông trả lời: “Thực ra tôi dạy chỉ có 2 cung Bắc, Nam, còn lại thấy người ta nói thì tôi cũng nói thế...”.
Hoặc có người đánh trống chầu anh thấy rất “oai phong” thì “lấy làm phục lắm”. Nhưng cụ Đẹ lại bảo người đấy không biết đánh. Bà Nguyễn Thị Chúc nói: “Ông ấy đánh, tôi khó hát lắm. Ông ấy toàn vả vào mồm tôi thôi”.
Bùi Trọng Hiền cho biết tiếp cận ca trù thời kỳ đầu khó vô cùng. Băng đĩa chính thức có mỗi Thề non nước của bà Quách Thị Hồ. Những người có băng đĩa cổ thì giấu kỹ. Nghệ nhân vốn đã ít lại e dè khi nói về nghề nghiệp từng bị cấm đoán của họ. Thứ nữa, giấu nghề đã trở thành một “bản năng”, được đưa vào luật tục của giáo phường.
“Ả đào không được phép trao truyền cho người ngoài. Người ngoài giáo phường phải nhận thầy làm con nuôi có lễ đàng hoàng mới được ông trùm giáo phường cho phép dạy", anh Hiền nói.
Vì thế anh từng tham gia xây dựng hồ sơ ca trù trình UNESCO cùng ông Đặng Hoành Loan từ 2005, nhưng rồi bỏ giữa chừng: “Nản kinh khủng. Nói ví dụ tôi từng đến quỳ ở lều tranh 3 ngày 3 đêm người ta không thèm tiếp, thôi về đi làm việc khác".
Năm 2018 Bùi Trọng Hiền được mời lại làm làm giám khảo Liên hoan ca trù ở Viện Âm nhạc mà ông Đặng Hoành Loan khi đó là giám đốc.
Với anh Hiền đó là sự kiện có tính lịch sử. Trong suốt cả 3 ngày chấm thi, anh nghe nghe cụ Đẹ chê đào kép trên sân khấu mà không hiểu gì.
“Khi đó tôi chợt bừng tỉnh. Cụ là người cuối cùng có thể giải đáp được tất cả câu hỏi về ca trù”, anh nhớ lại. Sau đó anh lập tức lên đường về Hải Dương, ăn nằm tại nhà cụ Đẹ để nghiên cứu ca trù để “vén màn sương mù của quá khứ thẳm sâu”.
Rồi anh phát hiện ra cụ Đẹ còn nhớ toàn bộ thể thức hát cửa đình nên tức tốc thuyết phục cụ truyền dạy cho CLB Ca trù Hải Phòng. Rất kịp thời vì chỉ hơn một năm sau là cụ không còn minh mẫn do tai biến.
Tiếp theo anh Hiền vào TPHCM gặp Giáo sư Trần Văn Khê xin toàn bộ tư liệu âm thanh, đặc biệt là cuốn băng gốc thu bà Quách Thị Hồ năm 1976. Giáo sư cũng cho biết đây là tất cả những gì mà ông đã lục tìm được khắp các thư viện ở Pháp.
Bùi Trọng Hiền còn được nhà nghiên cứu Jason Gibbs (Mỹ) tặng một số bản thu ca trù được phục dựng từ đĩa than 78 vòng. Ông Gibbs cũng kết nối cho một nhà sưu tập ở TPHCM chuyển cho anh Hiền các bản thu của bà Chu Thị Năm.
Một nguồn âm thanh quan trọng gồm 10 băng cát-sét mốc trắng mà Hiền nhận được từ GS. Vũ Nhật Thăng vào 2015. Đây là số còn lại từ những gì mà Viện Âm nhạc chuyển cho nhạc sĩ Vũ Nhật Tân (con trai GS. Thăng) để anh Tân ký âm từ 1996. Bùi Trọng Hiền mất 2 tuần thức trắng đêm đêm để lau mốc và cứu được nhiều bản ghi âm quý giá.
Tác giả Bùi Trọng Hiền phải vượt qua nhiều vấn đề về sức khỏe để hoàn tất công trình nghiên cứu để đời về hát ả đào. Ảnh: N.M.Hà |
“Tất cả tư liệu đều giá trị. Họ đều là dân nhà nghề, những danh ca, danh cầm. Tôi kiểm soát được nguồn tư liệu sớm nhất từ cuối những năm 1920 thu ở Hong Kong (Trung Quốc) cho đến gần nhất là của cụ Đẹ, cụ Chúc và cô Kim Đức. Nếu không có tư liệu vang, không làm gì được. Cụ Đẹ khi đó quá yếu, trí nhớ và sức lực không đủ cho tôi khai thác", anh khẳng định.
Như vậy tác giả Ả đào - Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật đã nhiều phen may mắn chiến thắng trong cuộc giành giật với thời gian nhằm lưu giữ những thành quả độc đáo về âm nhạc mà người Việt đã đạt được.
Nhạc cổ điển của người Việt
Ca trù là thể thức âm nhạc lâu đời nhất của người Việt. Ca quán được coi là tinh hoa của dòng nhạc này.
Bùi Trọng Hiền trích Việt Nam phong tục (1915) của Phan Kế Bính viết: “Ả đào tức là bọn ca nhi vũ nữ, tập nghề ca vũ từ thuở nhỏ, chừng mười bảy mười tám tuổi đã đi hát được. Bọn ả đào nhà quê thường đi hát về các nơi đình đám. Bọn ấy có lệ giữ cửa đình, hễ đến mùa các nơi dân xã hội hè, thì bọn nào hát cửa đình bọn ấy. Mỗi khi đi hát, kéo nhau từng bọn từ già chí trẻ, cả đào lẫn kép, đến hàng hai mươi, ba mươi người. Hết vụ hát thì lại về nhà quê cày bừa làm ăn. Còn ả nào có nhan sắc hoặc hát giỏi thì ra các phố xá mở nhà hát chiêu khách”.
Tạo hình ca nương trong phim Người bất tử. |
“Những năm 1940 có 2.000 cô đầu hoạt động trên địa bàn Hà Nội với trên 200 nhà hát ở khắp các quận huyện trong thành phố. Đủ biết một đời sống nghệ thuật đáng ngưỡng mộ. Tuồng, chèo, cải lương cộng lại cũng không thể bằng”, Bùi Trọng Hiền khẳng định.
Anh cũng cho biết từ những tinh hoa của nghệ thuật hát ả đào còn may mắn lưu giữ lại có thể xác định giá trị cổ điển như xương sống của thể loại.
“Một trong những giá trị chính là phương thức tiết tấu. Sau khi hiểu ra tôi vỡ òa. Đây là một loại hình âm nhạc quá hiểm hóc khiến cho ca trù trở thành một thể thức chuyên nghiệp bậc nhất, không dễ lưu truyền rộng rãi trong dân gian như các thể loại âm nhạc khác”.
Anh phân tích đào nương không được phép hát trùng với tiếng phách của chính mình, trong khi đàn lại phải đồng tiết tấu với tiếng hát.
“Đây là điều quá khó. Tại sao ông bà ta lại nghĩ ra một nguyên tắc hóc hiểm như vậy. Nhạc ả đào một mình một kiểu. Có lẽ trên thế giới cũng chả có loại nhạc nào kỳ dị như thế. Bài nhạc được lắp ghép rất nhiều những khổ đàn, khổ phách khác nhau. Những mô hình đó ghép nối với nhau liên tục theo thời gian liền mạch tạo thành một bài. Tôi gọi đây là cấu trúc lắp ghép”, anh nói.
Dưới góc nhìn của người làm nhạc như tôi, công trình Ả đào - Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật có đóng góp vô cùng lớn. Đây là cơ sở nghiên cứu cơ bản rất quan trọng để các nhà nghiên cứu, đào tạo và giáo dục âm nhạc sử dụng cho nhiều công việc khác nhau, mở ra nhiều khía cạnh khác trong âm nhạc ca trù.
Phải nói rất rõ chưa có công trình nào nghiên cứu nào sâu đến như thế, toàn diện về âm nhạc ca trù như thế. Tôi đánh giá rất cao công lao, tư duy và thành quả nghiên cứu của tác giả. Bùi Trọng Hiền đã nghiên cứu mất rất nhiều công sức và đưa ra một thành quả có thể nói là khổng lồ. Có lẽ về sau cũng ít có người nào dám xông vào mặt trận khó như thế này." nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan