Mỹ là quốc gia đầu tiên trên thế giới sở hữu vũ khí diệt vệ tinh. Ảnh: Wikipedia |
Theo Global Security, năm 1959, Mỹ bắt đầu tiến hành chương trình phát triển vũ khí chống vệ tinh. Chương trình mang tên, Hệ thống vũ khí 199B. Ban đầu, người ta sử dụng tên lửa Bold Orion phóng từ máy bay ném bom B-47 Statojet. Ngày 19/10/1959, tên lửa phóng thành công nhưng nó phát nổ cách mục tiêu tới 6,4 km.
Năm 1962, họ tiếp tục phát triển chương trình tên lửa chống vệ tinh khác mang tên Caleb nhưng không thành công. Đến năm 1967, Washington triển khai chương trình 437 sử dụng tên lửa Thor. Điểm nhấn của tên lửa là sử dụng đầu đạn hạt nhân để phá hủy vệ tinh. Tên lửa Thor được đưa vào sử dụng hạn chế trong quân đội giai đoạn 1967-1975.
Tuy nhiên, tên lửa sử dụng đầu đạn hạt nhân có nhược điểm lớn. Không chỉ tiêu diệt vệ tinh đối phương, nó còn có thể phá hủy luôn vệ tinh của Mỹ gần đó. Mỹ đưa vũ khí chống vệ tinh vào sử dụng mà không có đầu đạn hạt nhân. Vũ khí này mang tính biểu trưng hơn là giá trị sử dụng thực tế do độ chính xác không cao.
Năm 1978, Liên Xô rục rịch triển khai chương trình phát triển vũ khí chống vệ tinh. Trước tình hình đó, Tổng thống Jimmy Carter chỉ đạo không quân Mỹ phát triển một tên lửa diệt vệ tinh mới tinh vi hơn nhằm đáp trả Liên Xô.
Cùng năm, không quân bắt đầu triển khai chương trình Prototype Miniature Air-Launched Segment (PMALS), tạm dịch (Mẫu thử nghiệm bộ phận phóng trên không thu nhỏ). Chương trình nhằm mục đích phát triển tên lửa phóng từ trên không có khả năng diệt vệ tinh ở quỹ đạo thấp.
Sự kiện Mỹ bắn hạ thành công vệ tinh nhân tạo đã mở màn cuộc đua vũ khí không gian. Ảnh: Wikipedia |
Năm 1979, Không quân Mỹ ký hợp đồng với LTV Aerospace để phát triển tên lửa chống vệ tinh mới được chỉ định ASM-135 ASAT. Các kỹ sư sử dụng tiêm kích F-15A làm phương tiện mang phóng cho tên lửa. Người ta tháo màn hình hiển thị HUD trước mặt phi công để tăng khả năng quan sát nhằm phù hợp với nhiệm vụ mới.
Tiêm kích duy trì góc tấn khoảng 65 độ ở tốc độ siêu âm cho đến khi tên lửa ASM-135 tách ra khỏi máy bay và kích hoạt động cơ đẩy của nó. Đây là một kỹ thuật rất khó, đòi hỏi phi công phải có nhiều kinh nghiệm.
ASM-135 là một tên lửa nhiên liệu rắn 3 giai đoạn. Ở giai đoạn một, nó được sửa đổi từ tên lửa AGM-69, dùng động cơ nhiên liệu rắn nén xung LPC-415. Giai đoạn 2 sử dụng tên lửa Altair 3 cùng giai đoạn 3 phát triển mới. Giai đoạn 3 còn gọi Miniature Homing Vehicle MHV (phương tiện đầu dò thu nhỏ).
Tên lửa sử dụng hệ thống dẫn hướng kết hợp con quay laser hồi chuyển cùng đầu dò hồng ngoại. Cảm biến sử dụng 4 dải ngang và 4 dải dọc sắp xếp theo kiểu xoắn ốc, được làm mát bằng chất lỏng heli đặt trong một bình chân không.
Hệ thống dẫn hướng của MHV chỉ theo dõi các mục tiêu trong phạm vi tìm kiếm của cảm biến hồng ngoại mà không xác định độ cao, trạng thái hay phạm vi đến đích. Các kỹ sư bố trí một số động cơ nhiên liệu rắn nhỏ xung quanh đầu đạn để điều chỉnh quỹ đạo. Đầu đạn sử dụng động năng của vụ va chạm tốc độ cao để tiêu diệt mục tiêu mà không cần đến thuốc nổ.
Ngày 13/9/1985, Thiếu tá Wilbert D. "Doug" Pearson điều khiển chiếc F-15A mang số hiệu 76-0084 cất cánh cho nhiệm vụ thử nghiệm vũ khí không gian. Ông lái chiếc máy bay với tốc độ Mach-1.22 ( khoảng 1.494 km/h) rồi thực hiện động tác leo lên cao ở góc tấn 65 độ.
Phi công nhấn nút khai hỏa tên lửa ở độ cao 11,61 km. ASM-135 ASAT phá hủy thành công vệ tinh P87-1 ở độ cao 555 km. Theo dữ liệu ghi lại, đầu đạn MHV va chạm với vệ tinh ở tốc độ lên đến 24.140 km/h. Sự kiện này đưa Mỹ trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới tiêu diệt thành công vệ tinh bên ngoài trái đất.