Trao đổi với Zing.vn bên lề Hội nghị về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu tại Cần Thơ sáng 26/9, tiến sĩ Dương Văn Ni (Đại học Cần Thơ) nói rằng nhiều người đang làm các công trình đê bao đồ sộ ở miền Tây nhằm bảo vệ cư dân vùng này. Tuy nhiên, theo ông thì đê bao không mang tính bền vững lâu dài mà cái để bảo vệ con người chính là vốn sống đang có trong chính bản thân của từng người.
Nói đúng hơn đó chính là việc thích nghi với đời sống văn hóa địa phương, chung sống hài hòa với môi trường. "Đây mới là nền tảng cốt lõi để con người thích ứng với mọi sự thay đổi", ông Ni nói.
Con người đang đi ngược với tự nhiên
Theo tiến sĩ Ni, những công trình lớn một mặt có thể đảm bảo tài sản của xã hội nhất thời trong giai đoạn nào đó, chứ không bảo vệ vĩnh viễn; bởi vì không ai có thể lường trước thiên nhiên sẽ thay đổi ở mức độ nào. Những công trình lớn đang tập cho người dân có cảm giác an tâm trong môi trường đó mà họ bỏ quên những kỹ năng về bản thân con người. Hay nói đúng hơn là cái mà cha ông đã phát triển từ lâu, gắn liền với cuộc sống hàng ngày thì bây giờ con người không tiếp tục phát huy thêm những kỹ năng đó nữa vì nghĩ rằng họ đang được bảo vệ bởi đê bao, công trình chống ngập.
"Tôi cho rằng các công trình đó đẩy chúng ta vào chỗ nguy hiểm hơn là chỗ thích nghi tốt hơn. Nền văn hóa của chúng ta mới là cái thành trì vững chắc nhất để chống chọi với mọi sự thay đổi, trong đó có sự biến đổi khí hậu", tiến sĩ Ni nêu quan điểm.
Tiến sĩ Dương Văn Ni. Ảnh: Việt Tường. |
Dẫn chứng điều này, vị giảng viên Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên của Đại học Cần Thơ nêu thực tế ở khu vực vùng trũng được các địa phương làm đê bao ngăn triều cường. Tuy nhiên, sau khi đắp đê thì đất bên ngoài đê vẫn tiếp tục được bồi thêm, còn phía trong đê đất sụp xuống vì khô.
Điều đó đặt ra vấn đề là liệu đê bao khép kín có gìn giữ cho cộng đồng phía trong được bao lâu trong hiện tại và tương lai, hay là đặt cả cộng đồng đó vào nỗi lo nơm nớp lúc nào cũng phải đối phó với chuyện nước ngập. Và như vậy thì toàn lực của xã hội thay vì được đầu tư vào để phát huy năng lực, tiềm lực của con người thì bây giờ phải tập trung vào chuyện đối phó với ngập nước.
"Một nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhóm trẻ nằm trong đê bao có 40% không biết bơi so với những đứa trẻ sống bên ngoài . Như vậy, đê bao đó đã đặt cộng đồng tại đây vào thế rủi ho hơn trước", tiến sĩ Ni chia sẻ.
ĐBSCL còn có một thực tế tồn tại từ bao đời nay là ở đâu có đường thì cạnh đó có sông và có chợ. Đây là nền văn hóa đồng bằng, con người vẫn thích sống gần nước hơn là trên đất liền.
Tuy nhiên, vì mật độ dân ngày càng đông nên người dân phát triển nhà ở ven sông một cách vô tội vạ, ngay cả những nơi có những hố cũng cố gắng làm bờ kè để phát triển đông dân cư. Đó là chuyện đi lệch quy luật tự nhiên, lệch với nền văn hóa mà chúng ta đã có hàng trăm năm trước nên trả giá vì con người đang đi ngược lại với tự nhiên.
Không ưu tiên phát triển lúa
Để đối phó với biến đổi khí hậu, trong đó có sụt lún đất và nước biển dâng, giáo sư Võ Tòng Xuân cho rằng ĐBSCL mỗi năm mỗi ngập và quá trình ngập từ mười nghìn năm trước mới làm ra vùng đồng bằng. Trong đó, có giai đoạn nước biển dâng lên cao, có khi kéo dài 200-300 năm, rồi nước biển lùi ra xa, bờ biển cũ trở thành những giồng cát.
Giáo sư Võ Tòng Xuân. Ảnh: Việt Tường. |
"Bây giờ đi Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng sẽ thấy rất nhiều giồng cát. Nước biển dâng, nước biển lùi có từ mười nghìn năm chứ không phải mới đây", giáo sư Võ Tòng Xuân nói.
Điều mà ông Xuân lo lắng nhất hiện nay là ĐBSCL mỗi năm lún từ 1-3 cm và nguyên nhân là do người dân lấy nước ngầm. Các tỉnh ven biển dùng nước ngầm bơm lên ruộng lúa và cứ mỗi tấn nông sản được làm ra cần đến 4.500 lít nước. Từ đó, việc sản xuất phải đắn đo cái nào ít tốn nước thì cho ưu tiên.
"Cả nước hiện nay cần khoảng 18 triệu tấn gạo. Trồng lúa bây giờ không ưu tiên nữa, chỉ trồng đủ ăn và dư ra 2 triệu tấn gạo là vừa, đừng ham dư ra 8-9 triệu tấn gạo, vừa tốn nước, vừa tốn tiền bơm nhưng thu hoạch tiền không bao nhiêu", vị giáo sư nói.
Theo vị giáo sư, miền Tây hiện có 2,1 triệu ha đất trồng lúa và nông dân nhiều nơi đang làm lúa 3 vụ. Để đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước, ĐBSCL chỉ cần trồng 1,5 triệu ha lúa và từ 3 vụ giảm xuống 2 vụ là vừa.
"Làm lúa càng nhiều thì càng dư gạo, mà dư gạo thì giá sụt giảm, nông dân không có lời", giáo sư Võ Tòng Xuân khẳng định.
Sạt lở bờ biển ở Kiên Giang. Ảnh: Phước Lợi. |
Chia sẻ kinh nghiệm tại thảo luận Nông nghiệp bền vững, ông Nguyễn Thanh Hùng, Phó chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, nói địa phương này đang giảm lúa vụ thu đông để tạo không gian thoát lũ. Để thực hiện nông nghiệp bền vững, tỉnh đang quy hoạch 22.000 ha ở 4 huyện với 9 mô hình sinh kế thay thế lúa vụ ba, tạo thu nhập cao hơn khi người dân làm 3 vụ lúa mỗi năm.
Trong tái cơ cấu nông nghiệp, Đồng Tháp đang chuyển lúa sang cây ăn trái, nông nghiệp thông minh, thích hợp với thị trường và biến đổi khí hậu.