Các nước Đông Nam Á đang bước vào năm thứ hai của đại dịch Covid-19 trong bối cảnh biến chủng Delta khiến số ca mắc gia tăng nhanh chóng tại khu vực.
Thái Lan chỉ ghi nhận 6.884 ca nhiễm trong năm 2020 nhưng kể từ đầu năm đến nay đã có 220.000 trường hợp mắc bệnh. Tương tự, Malaysia báo cáo 113.000 trường hợp vào năm 2020 nhưng đã chứng kiến 592.000 ca nhiễm kể từ đầu năm 2021.
Trong khi đó, tâm dịch Đông Nam Á - Indonesia - hôm 23/7 trở thành nước đầu tiên trong khu vực có số ca tử vong vượt mốc 80.000. Số ca nhiễm ở nước này cũng đang dẫn đầu khu vực với 3.082.410 người.
Việc lơ là không tuân thủ các thủ các quy định chống dịch đã khiến một số quốc gia chìm trong cuộc khủng hoảng không hồi kết.
Tốc độ tiêm chủng chậm chạp cũng là một trong những yếu tố khiến dịch bệnh lây lan mạnh mẽ hơn. Tỷ lệ tiêm chủng ở Philippines là 5,7%, Thái Lan là 7,9% và Indonesia là 8,4%.
Và trên hết, sự xuất hiện của biến chủng mới nguy hiểm hơn và dễ lây nhiễm hơn khiến Đông Nam Á hứng chịu đợt bùng phát chưa từng có, CNA đưa tin.
Chiến lược xoay chuyển tình hình
Theo tiến sĩ Swee Kheng Khor, chuyên gia độc lập về chính sách y tế tại Malaysia, đại dịch Covid-19 đang là phép thử dài lâu về năng lực của nhà nước, tiềm tàng nhiều thử thách về chính trị và chính sách.
Tuy nhiên, vị chuyên gia này đánh giá bất chấp những khó khăn hiện nay, các nước Đông Nam Á vẫn có cơ hội để đảo ngược tình thế.
Người dân xếp hàng chờ tới lượt bơm đầy bình oxy y tế cho người nhà mắc Covid-19 tại Indonesia. Ảnh: Reuters. |
Tiến sĩ Swee Kheng Khor cho rằng để lật ngược tình thế hiện nay, các quốc gia Đông Nam Á cần có chiến lược tốt hơn để triển khai những giải pháp, vốn đã phải quen thuộc trong thời dịch bệnh, như thay đổi hành vi (đeo khẩu trang và giãn cách), xét nghiệm, truy vết và cách ly.
Việc thực thi chính sách phải dựa trên bằng chứng thực tế, phân bổ hợp lý nguồn tài chính và bỏ qua các quy tắc cứng nhắc.
Chính sách được đưa ra nên tính đến việc kết hợp với dịch vụ y tế tư nhân, vì nó chiếm 53% ngành này ở Đông Nam Á. Bên cạnh đó, chiến dịch tiêm chủng cần được thực hiện càng nhanh càng tốt.
Các quốc gia có thể thiết lập trung tâm tiêm chủng di động như ở Indonesia, thay đổi tâm lý e ngại vaccine như ở Philippines, hợp tác với khu vực tư nhân như ở Malaysia và Singapore, tự phát triển vaccine trong nước như Việt Nam và Thái Lan, và cung cấp dịch vụ vận chuyển miễn phí chặng cuối đến các trung tâm tiêm chủng.
Các quốc gia cũng nên chuẩn bị cơ sở hạ tầng về y tế, ban hành luật lệ và quy trình cho các vấn đề liên quan tiêm chủng, chẳng hạn hộ chiếu vaccine và xét nghiệm kháng thể.
Người cao tuổi tại Thái Lan đo huyết áp trước khi tiêm chủng ngừa Covid-19. Ảnh: Sipa. |
Tìm kiếm trợ giúp bên ngoài
Tiến sĩ Swee Kheng Khor cho rằng các nước Đông Nam Á cần hợp tác tốt hơn và tìm kiếm thêm giải pháp ngoài biên giới quốc gia. Một hệ thống mua vaccine tổng hợp sẽ giúp ích và có thể được dựng theo mô hình Quỹ Quay vòng của Tổ chức Y tế Liên Mỹ (PAHO).
Hợp tác mua vaccine giúp giảm chi phí, đảm bảo quyền tiếp cận công bằng của người dân trong khu vực và tăng sức mạnh trong đàm phán với các hãng dược phẩm.
Đông Nam Á cũng nên tham gia tích cực hơn vào các cuộc thảo luận toàn cầu về phân phối công bằng vaccine và cải cách quản trị y tế.
Các nước trong khu vực có thể thúc đẩy nỗ lực toàn cầu, kêu gọi miễn trừ các quyền về bằng sáng chế đối với vaccine Covid-19 và chuyển giao công nghệ về hàng hóa y tế liên quan đến Covid-19. Điều này sẽ cho phép các nhà máy của Indonesia, Malaysia và Singapore sản xuất vaccine để sử dụng trên toàn khu vực.
Người dân Indonesia xếp hàng đợi tiêm vaccine Covid-19. Ảnh: Reuters. |
Theo ông Khor Swee Kheng, những nước Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng nề có thể hồi phục trong nửa cuối năm 2021 nếu tiếp thu các bài học rút ra từ năm 2020 và từ các quốc gia khác. Trên hết, sự phục hồi sẽ phụ thuộc vào hiểu biết khoa học, khả năng phán đoán tốt và gạt bỏ những lợi ích cục bộ và tâm lý tự mãn.