Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Đổi mới các cơ quan tham mưu và cơ quan nhà nước

Nội dung thuộc trong chuyên đề "Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới".

Ảnh: Việt Hùng

(Nội dung thuộc Phần thứ nhất: Đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 30/7/2007 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị).

II. Kết quả thực hiện

1. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị

Mỗi nhiệm kỳ, trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, sửa đổi, bổ sung, ban hành Quy chế làm việc; ban hành quy chế làm việc mẫu của đảng đoàn, ban cán sự đảng; tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương và lãnh đạo các cấp ủy, tổ chức đảng xây dựng quy chế làm việc cụ thể của cấp mình. Qua 3 lần sửa đổi (khóa XI, khóa XII, khóa XIII), Quy chế làm việc ngày càng chặt chẽ, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong từng giai đoạn, góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Nội dung Quy chế đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ; xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của tập thể, cá nhân, chế độ làm việc, phương pháp công tác; chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; trách nhiệm người đứng đầu; tăng cường phân công, phân cấp, phối hợp; đổi mới phong cách, lề lối làm việc; là cơ sở quan trọng để đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, đồng thời, nêu cao trách nhiệm, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị. Cùng với quy chế làm việc, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo, sơ kết, tổng kết sửa đổi, bổ sung, ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, quy định, quy chế liên quan đến công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, trên cơ sở đó, hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng ngày càng đi vào nền nếp, thực hiện nghiêm nguyên tắc của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng.

1.1. Đối với các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ở Trung ương; cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy các cấp

- Các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ở Trung ương:

Năm 2007, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X: “Kiện toàn, nâng cao chất lượng toàn diện các cơ quan tham mưu và các tổ chức đảng ở Trung ương nhằm tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Các cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng được tổ chức lại thành 6 cơ quan: Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương và Văn phòng Trung ương Đảng”. Năm 2012, Ban Chấp hành Trung ương quyết định lập Ban Kinh tế Trung ương, Ban Nội chính Trung ương. Các cơ quan này được giao nhiệm vụ tham mưu chiến lược, giúp việc cho Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại; chính trị, tư tưởng, đạo đức; tổ chức và cán bộ; kiểm tra, giám sát; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và công tác vận động quần chúng.

Từng cơ quan tham mưu có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, quy chế làm việc, mối quan hệ công tác theo quyết định của Bộ Chính trị và được xem xét sửa đổi, bổ sung thường xuyên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu lãnh đạo của Đảng. Theo đó, Văn phòng Trung ương Đảng là cơ quan tham mưu, giúp việc trong tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo của Đảng, phối hợp, điều hòa hoạt động của các cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng; đồng thời là trung tâm thông tin tổng hợp phục vụ lãnh đạo. Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương, chính sách và giải pháp lớn trong công tác dân vận. Ban Đối ngoại Trung ương là cơ quan tham mưu trong lĩnh vực đối ngoại và tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Đảng. Ban Kinh tế Trung ương là cơ quan tham mưu, giúp việc về định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; hoạch định đường lối, chủ trương, biện pháp lớn, quan trọng về kinh tế - xã hội. Ban Nội chính Trung ương là cơ quan tham mưu, giúp việc về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực nội chính, phòng, chống tham nhũng và cải cách tư pháp. Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan tham mưu, giúp việc về công tác tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; đồng thời là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo vệ chính trị nội bộ. Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan tham mưu, giúp việc trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức; đồng thời, là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tuyên giáo của Đảng. Ủy ban Kiểm tra Trung ương là cơ quan kiểm tra, giám sát chuyên trách, tham mưu cho Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.

Để bảo đảm yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, Bộ Chính trị phân công Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư trực tiếp phụ trách, chỉ đạo hoạt động của các cơ quan tham mưu, giúp việc ở Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, thẩm định, thẩm tra, phối hợp, góp phần thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; chương trình làm việc toàn khóa, hàng năm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Các cơ quan tham mưu chú trọng cụ thể hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết, nhất là nghị quyết Đại hội Đảng, xác định nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá; quan tâm nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc; kiện toàn, tăng cường trách nhiệm, năng lực tham mưu, bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm thực tiễn cho đội ngũ cán bộ; thường xuyên kiểm tra, giám sát các cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng; kịp thời tham mưu sơ kết, tổng kết các văn bản của Đảng thuộc phạm vi được phân công; đổi mới phương pháp, lề lối làm việc; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức; chú trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nhất là lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới và công tác xây dựng Đảng, góp phần hoàn thiện đường lối, quan điểm của Đảng.

Những năm qua, các ban xây dựng Đảng đã tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành nhiều văn bản quan trọng, cụ thể hóa Cương lĩnh, đường lối, định hướng, chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, tiếp tục hoàn thiện các quy chế, quy định, quy trình có liên quan; đề xuất chủ trương đối với những vấn đề phức tạp, phát sinh trong quá trình phát triển. Tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị ban hành nhiều chiến lược quan trọng. Đồng thời, tham mưu ban hành nhiều quy chế, quy định nhằm đảm bảo nguyên tắc, đổi mới, nâng cao hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng.

- Cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy các cấp:

Các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương có 6 cơ quan tham mưu, giúp việc, đó là: ban tổ chức, cơ quan ủy ban kiểm tra, ban tuyên giáo, ban dân vận, ban nội chính, văn phòng. Các huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy có 5 cơ quan tham mưu, giúp việc, đó là: văn phòng, ban tổ chức, cơ quan ủy ban kiểm tra, ban dân vận, ban tuyên giáo. Các cơ quan này trực tiếp tham mưu, giúp việc cho ban chấp hành, ban thường vụ cấp ủy trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tại địa phương. Đối với cấp ủy cơ sở, chức danh bí thư, phó bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn là cán bộ chuyên trách, không thành lập bộ phận tham mưu, giúp việc.

Trên cơ sở tham mưu của các ban xây dựng Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng ban hành nghị quyết, quy định, quy chế cụ thể hóa văn bản của Trung ương theo thẩm quyền; đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; đổi mới phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo; nội dung, phong cách, lề lối làm việc theo hướng thiết thực, hiệu quả; bố trí cán bộ, phân công và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của từng ủy viên ban chấp hành, thường vụ, thường trực cấp ủy, đảm bảo vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng ở địa phương.

Tuy nhiên, công tác tham mưu, giúp việc của các ban xây dựng Đảng ở Trung ương và địa phương có nơi, có lúc chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao; một số chủ trương, chính sách tham mưu chưa đảm bảo chất lượng, chưa sát với thực tiễn. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn hạn chế, chưa dự báo đầy đủ những vấn đề thuộc phạm vi được phân công, nhất là vấn đề mới, phức tạp để chủ động đề xuất, kiến nghị với Đảng ban hành chủ trương, giải pháp kịp thời. Một số cơ quan chưa đổi mới mạnh mẽ phong cách, lề lối làm việc; công tác phối hợp có lúc, có nơi chưa thật đồng bộ, hiệu quả. Chất lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ làm nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu, còn hạn chế, bất cập, còn thiếu cán bộ, chuyên gia giỏi, am hiểu thực tiễn, có năng lực nghiên cứu.

1.2. Đối với các cơ quan nhà nước

Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, định hướng lớn, quan trọng đối với các cơ quan nhà nước gắn với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Kết quả xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đạt được nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm đồng bộ giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chuyển biến tích cực; cơ chế kiểm soát quyền lực được chú trọng hơn.

Thông qua Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ và các bộ, ngành, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng kịp thời quán triệt, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng gắn với chức năng, nhiệm vụ được giao. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục xác định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, bổ sung nội dung Đảng chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Trên cơ sở Hiến pháp, nhiều đạo luật liên quan đến tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước được sửa đổi, hoàn thiện.

a) Quốc hội

Với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước, hoạt động của Quốc hội có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng lên, hệ thống pháp luật tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, nâng cao tính khả thi của chính sách, pháp luật trong đời sống xã hội; chú trọng quyền, lợi ích hợp pháp của cử tri và Nhân dân, tăng cường quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri.

Các cuộc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thành công, đúng pháp luật, dân chủ, bình đẳng, thực sự là ngày hội lớn của toàn dân với tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử nhiều nhiệm kỳ luôn đạt trên 99%.

Đảng đoàn Quốc hội thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo ban hành nghị quyết, quyết định, kết luận, những vấn đề cần quan tâm nhằm cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng gắn với chức năng hoạt động của Quốc hội; phân công, giao trách nhiệm cho thành viên Đảng đoàn theo dõi, phụ trách các lĩnh vực công tác; xây dựng chương trình công tác nhiệm kỳ, hàng năm; quy định chế độ sinh hoạt, hội họp; chế độ báo cáo, xin ý kiến Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; định kỳ hoặc khi cần thiết nghe báo cáo kết quả triển khai nhiệm vụ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và các cơ quan, tổ chức có liên quan; cho ý kiến chỉ đạo hoặc báo cáo Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương những vấn đề quan trọng, phức tạp; xây dựng cơ chế phối hợp công tác với các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng, các ban cán sự đảng, đảng đoàn ở Trung ương. Đồng thời, tăng cường mối quan hệ với nhân dân, thông qua các hoạt động của Quốc hội, hoạt động tiếp xúc cử tri thường xuyên, tiếp xúc theo chuyên đề, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Trong lĩnh vực lập hiến, lập pháp:

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị khóa XI đã lãnh đạo thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 do đồng chí Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch Ủy ban, chỉ đạo tổng kết toàn diện việc thi hành Hiến pháp năm 1992; trình, xin ý kiến Hội nghị Trung ương 8 khóa XII dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 đã được thông qua với tỷ lệ 97,59% đại biểu tán thành, kế thừa và phát triển các giá trị cốt lõi, nền tảng của các bản Hiến pháp trước đó, cụ thể hóa Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 về quyền con người, quyền công dân, tổ chức bộ máy nhà nước, những định hướng lớn về phát triển đất nước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới; về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, môi trường, bảo vệ Tổ quốc; cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 03/01/2014 về triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xác định rõ những nhiệm vụ trọng tâm các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để đảm bảo thực thi Hiến pháp. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo ban hành Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13 ngày 02/01/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp, xác định yêu cầu sửa đổi 89 dự án luật, pháp lệnh.

Để lãnh đạo công tác lập pháp, Bộ Chính trị ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 với các quan điểm chỉ đạo: “Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh. Phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế... tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hòa bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật. Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật. Tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, với những bước đi vững chắc; coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng tâm, trọng điểm”1 ; đồng thời, xác định 6 định hướng trọng tâm để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nhiệm kỳ Đại hội XIII, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 về định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, yêu cầu chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, ổn định, công khai, minh bạch, có sức cạnh tranh quốc tế, đề cao trách nhiệm, nhất là của người đứng đầu, chống tiêu cực trong xây dựng pháp luật; tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, sự chủ động của các cơ quan, đại biểu Quốc hội, sự tham gia của chuyên gia, nhà khoa học; phát huy vai trò của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nâng cao chất lượng phản biện xã hội; kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật. Trên cơ sở đó, Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo xây dựng, thực hiện Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ, hàng năm, thường xuyên chỉ đạo rà soát, điều chỉnh, bổ sung kịp thời; định kỳ báo cáo Bộ Chính trị kết quả triển khai, khi cần thiết báo cáo xin ý kiến định hướng đối với những vấn đề phức tạp. Giai đoạn 2007 - 2021, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 399 văn bản quy phạm pháp luật, về cơ bản, hệ thống pháp luật đã thể chế hóa kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng.

- Trong quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước:

Từ năm 2007 đến nay, Quốc hội các khóa XII, XIII, XIV đã xem xét, quyết định 59 nội dung quan trọng về công tác tổ chức, nhân sự cấp cao của bộ máy nhà nước; 96 nội dung quan trọng về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước; 14 dự án, công trình trọng điểm quốc gia.

Thực hiện thẩm quyền đối với tổ chức bộ máy nhà nước và chủ trương của Đảng về công tác nhân sự, Quốc hội đã bầu, phê chuẩn, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh theo quy định của pháp luật.

Trong nhiệm kỳ khóa XIV, Quốc hội thông qua 46 nghị quyết về sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã tại 45 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 21 đơn vị hành chính cấp huyện và 1.041 đơn vị hành chính cấp xã, giảm được 8 đơn vị hành chính cấp huyện và 557 đơn vị hành chính cấp xã; hoàn thành sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019 - 2021; thành lập, nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính tại 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; thành lập 12 thành phố, 9 thị xã, 21 thị trấn, 136 phường trên cơ sở các đơn vị hành chính nông thôn hoặc đô thị theo yêu cầu của Đảng.

- Trong hoạt động giám sát:

Việc sửa đổi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 và ban hành Quy chế tổ chức thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội là cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.

Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày càng đi vào thực chất theo hướng dân chủ, công khai, tranh luận, thu hút sự quan tâm của cử tri cả nước. Qua báo cáo kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri, kết quả thực hiện các kiến nghị trong hoạt động giám sát, nghị quyết chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp, nhiều vấn đề bức xúc trên các lĩnh vực như quản lý đất đai, đầu tư công, giao thông vận tải, ngân hàng, y tế, giáo dục, tư pháp, giảm nghèo... đã được giải trình, xác định trách nhiệm cụ thể, đề ra giải pháp giải quyết. Kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội góp phần khẳng định chủ trương, đường lối của Đảng trong cuộc sống; góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật, bổ sung cơ sở lý luận, thực tiễn đối với đường lối, chủ trương của Đảng. Các kiến nghị qua hoạt động giám sát ngày càng được quan tâm, nghiêm túc thực hiện, tạo chuyển biến tích cực, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Việc tổ chức hoạt động giải trình tại Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội được lãnh đạo thực hiện thí điểm từ năm 2010, từ kết quả đạt được, hoạt động giải trình đã tiến hành thường xuyên tại Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, được quy định là một hình thức giám sát trong Luật hoạt động giám sát, đây là bước đổi mới quan trọng nhằm xem xét, giải quyết kịp thời hơn những vấn đề bức xúc trong xã hội, đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn.

Năm 2013, lần đầu tiên Quốc hội khóa XIII tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với 57 chức danh Nhà nước do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Năm 2018, Quốc hội khóa XIV tiếp tục cải tiến và tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với 51 chức danh của các cơ quan của Quốc hội. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm trong Quốc hội góp phần tăng cường hoạt động giám sát của Đảng, nêu cao trách nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn, chức danh lãnh đạo các cơ quan của Quốc hội trong thực hiện nhiệm vụ trước Nhân dân, được cán bộ, đảng viên, Nhân dân ủng hộ, tin tưởng vào công tác cán bộ của Đảng.

Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập theo pháp luật; thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội.

Tuy nhiên, việc lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước còn một số hạn chế. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh còn phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều lần; hệ thống pháp luật chưa thật hoàn thiện, một số quy định chưa đảm bảo tính thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn đặt ra, tính khả thi của một số chính sách, pháp luật chưa cao. Hoạt động giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa thường xuyên; chưa giám sát kịp thời một số vấn đề bức xúc, phức tạp, được đông đảo cử tri quan tâm; việc nghiên cứu kiến nghị sau giám sát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật chưa được quan tâm đầy đủ. Một số vấn đề mang tầm chiến lược, vĩ mô chưa được thảo luận đầy đủ, sâu sắc; chưa đánh giá, xác định được trách nhiệm cụ thể đối với việc thực hiện một số nghị quyết, quyết định của Quốc hội. Chất lượng hoạt động của đại biểu Quốc hội chưa đồng đều.

b) Chủ tịch nước

Thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW, trách nhiệm, quyền hạn cụ thể của Ủy viên Bộ Chính trị là Chủ tịch nước được quy định trong Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, đồng thời, thực hiện trách nhiệm, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; chủ động báo cáo công việc thuộc thẩm quyền hoặc khi có yêu cầu. Mỗi nhiệm kỳ, Bộ Chính trị phân công một đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng đảm nhận chức danh Chủ tịch nước và giới thiệu để Quốc hội bầu.

Theo Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại. Những nhiệm kỳ qua, Chủ tịch nước đã thực hiện có hiệu quả nhiều nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định, nổi bật đó là: công bố Hiến pháp năm 2013; từ năm 2007 đến năm 2021, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố 250 luật, 26 pháp lệnh và 31 nghị quyết đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua; trình Quốc hội bầu, miễn nhiệm một số chức danh của bộ máy nhà nước; quyết định khen thưởng nhà nước; thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh; quyết định phong, thăng quân hàm cấp tướng trong lực lượng vũ trang...

Bộ Chính trị phân công một đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng để Quốc hội bầu giữ chức danh Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ và được Chủ tịch nước ủy nhiệm thực hiện một số nhiệm vụ.

Thực hiện Quy định số 216-QĐ/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước và một số tổ chức đảng trực thuộc ở Trung ương và các quy định có liên quan, Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước đã phát huy vai trò, quan tâm, theo dõi, nắm tình hình mọi mặt của đất nước, tham gia ý kiến với Đảng, các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội về việc thực hiện chủ trương, đường lối quan trọng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các vấn đề nhân dân quan tâm; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị nâng cao hiệu quả hoạt động, thực hiện nhiệm vụ Bộ Chính trị giao, quy định của Hiến pháp và pháp luật.

c) Chính phủ

Ban cán sự đảng Chính phủ chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật và Quy chế làm việc. Thông qua Ban cán sự đảng Chính phủ, Đảng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Chính phủ nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội; thường xuyên đổi mới tổ chức và hoạt động, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ; sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số, góp phần quan trọng cho phát triển đất nước và phục vụ ngày càng tốt hơn cuộc sống nhân dân. Ban cán sự đảng Chính phủ thường xuyên báo cáo Đảng kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ; kịp thời xin ý kiến về những vấn đề hệ trọng, cần thiết theo thẩm quyền.

Ban cán sự đảng Chính phủ đã tăng cường cụ thể hóa, thể chế hóa, tuyên truyền, vận động, tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, các đột phá lớn của nghị quyết Đại hội Đảng, tạo sự chuyển biến tích cực, toàn diện trong lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Kinh tế vĩ mô ổn định; các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo; tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức khá cao, chất lượng được cải thiện; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; các chính sách văn hóa - xã hội, chính sách phúc lợi, an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo; đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao; hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm của khóa X đạt 7%/năm, khóa XI đạt trên 5,9%/năm và khóa XII đạt khoảng 6%/năm; năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD; năng suất lao động giai đoạn 2011 - 2015 tăng 4,3%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 tăng 6%/năm; đến tháng 01/2022, Việt Nam đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với 30 nước, là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương, có quan hệ thương mại với 224 thị trường và đối tác, đã ký được 15 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, 71 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam.

Giai đoạn 2007 - 2021, Chính phủ đã ban hành 2.146 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 1.113 quyết định, các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành 8.938 thông tư, 943 thông tư liên tịch. Đồng thời, lãnh đạo tổng kết, sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Chính phủ (năm 2015, 2019) làm cơ sở để tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.

Ban cán sự đảng Chính phủ phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương, các cơ quan liên quan thực hiện công tác quy hoạch, bố trí, phân công công tác, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ theo thẩm quyền. Bên cạnh đó, Chính phủ ban hành 68 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 8 quyết định, Bộ Nội vụ ban hành 82 thông tư; từng bước hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến tuyển dụng, sử dụng, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng vị trí việc làm; đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ, công chức, viên chức...

Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2030, sắp xếp, tổ chức các bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; đồng thời, sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan của Chính phủ theo hướng thu gọn đầu mối trực thuộc, khắc phục chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Nhiệm kỳ XII (2007 - 2011), Chính phủ gồm 22 bộ, cơ quan ngang bộ, 8 cơ quan thuộc Chính phủ; so với khóa XI giảm 8 đầu mối (4 bộ, cơ quan ngang bộ; 4 cơ quan thuộc Chính phủ). Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, giai đoạn 2017 - 2021, các cơ quan của Chính phủ giảm 17 tổng cục, 10 cục, 22 vụ thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, 4 vụ của cơ quan thuộc Chính phủ, 119 vụ thuộc tổng cục, giảm 90% phòng thuộc vụ; chính quyền địa phương giảm 2.084 tổ chức hành chính ở cấp tỉnh; 638 cơ quan chuyên môn và tương đương ở cấp huyện; từ năm 2019 đến nay, chỉ đạo sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã chưa đủ tiêu chuẩn tại 45/63 địa phương. Bên cạnh đó, cải cách hành chính được đẩy mạnh, chọn khâu đột phá là thủ tục hành chính. Chỉ số cải cách hành chính, chỉ số quản trị công, chỉ số về sự hài lòng của người dân của nhiều bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương đã có sự cải thiện tích cực.

Tuy nhiên, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban cán sự đảng Chính phủ đối với việc thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng có mặt chưa đầy đủ, hệ thống pháp luật còn một số quy định tính khả thi không cao, chưa thống nhất, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; pháp luật chưa được chấp hành nghiêm; công tác quản lý nhà nước có mặt còn hạn chế. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chưa được hoàn thiện, còn chồng chéo, trùng lắp. Kết quả tinh giản biên chế, nhất là nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức chưa gắn với vị trí việc làm; năng lực, đạo đức công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Việc thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa đạt mục tiêu đề ra. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương một số nơi chưa đổi mới mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Công tác thanh tra, kiểm tra, cải cách hành chính, cơ chế kiểm soát quyền lực, việc phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát triển đất nước.

d) Các cơ quan tư pháp

Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp tiếp tục có nhiều đổi mới, đạt được nhiều kết quả tích cực, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ Nhân dân, đất nước. Tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Để đảm bảo vai trò lãnh đạo, Đảng ban hành nhiều chủ trương, định hướng lớn về đổi mới hoạt động tư pháp; tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trên cơ sở đó, ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp đã lãnh đạo việc nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền, vận động; cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương của Đảng, nhất là cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp. Tập trung hoàn thiện chính sách, pháp luật có liên quan, nhất là pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, chế định bổ trợ tư pháp; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đủ tiêu chuẩn, phân công đồng chí cấp ủy viên có trình độ chuyên môn, có năng lực, uy tín, bản lĩnh làm chánh án tòa án nhân dân và viện trưởng viện kiểm sát nhân dân các cấp; hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân đối với các cơ quan tư pháp. Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp được củng cố, kiện toàn, tham mưu cho Đảng tổ chức thực hiện có hiệu quả Chiến lược cải cách tư pháp.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức tòa án nhân dân được sửa đổi, bổ sung, đảm bảo tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân được sửa đổi, bổ sung đảm bảo quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và nhiều đạo luật có liên quan về tổ chức cơ quan điều tra hình sự, giám định tư pháp, thi hành án, luật sư, đối thoại và hòa giải tại tòa án... được sửa đổi, bổ sung, ban hành tạo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp. Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân được đổi mới theo mô hình 4 cấp; hệ thống tổ chức viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống của tòa án nhân dân; hệ thống cơ quan điều tra được sắp xếp tinh gọn.

Các cơ quan tư pháp đã góp phần quan trọng trong hoạt động tố tụng, công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm tính độc lập trong điều tra, truy tố, xét xử theo luật định; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc can thiệp không đúng pháp luật vào hoạt động tư pháp; tích cực thực hiện các kiến nghị, nghị quyết của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Các cơ quan chức năng thường xuyên kiểm tra, giám sát các hoạt động tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả, ngăn chặn lạm quyền, góp phần kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp.

Tuy nhiên, tổ chức, hoạt động, chất lượng của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tư pháp chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu của Đảng và pháp luật của Nhà nước; một số chủ trương của Đảng chậm được thể chế hóa, tổ chức thực thi chưa nghiêm; tình trạng vi phạm pháp luật, trong đó có hoạt động tư pháp có lúc, có nơi còn diễn ra nghiêm trọng; công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với các cơ quan tư pháp chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao; việc tự kiểm tra của tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp có mặt còn hạn chế.

Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, NXB Chính trị quốc gia Sự thật

SÁCH HAY