Gia đình là hạt nhân của xã hội. Xây dựng, phát huy hệ giá trị gia đình có ý nghĩa to lớn trong phát triển hệ giá trị Việt. |
Phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững đất nước, trong giai đoạn 2021-2030 với tầm nhìn đến 2045, muốn thành công tất yếu phải phát huy cao độ tất cả nguồn lực có thể có của dân tộc và thời đại. Trong số đó nguồn lực con người Việt Nam là nguồn lực quan trọng và quyết định nhất.
Thứ nhất, nguồn lực con người tham gia quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước nói chung, luôn là chủ thể sử dụng, phối kết hợp tất cả nguồn lực khác. Các nguồn lực khác sẽ trở nên vô dụng nếu nhân lực, chủ thể sử dụng các nguồn lực đó không đảm bảo chất lượng.
Thứ hai, trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, cả phương Đông lẫn phương Tây đã có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của các nguồn lực khác nhau đối với sự phát triển quốc gia, dân tộc. Nhưng, càng ngày nhân loại càng tiến đến quan điểm vai trò quyết định của nguồn nhân lực và nhận thức về điều đó một cách sâu sắc hơn, cụ thể hơn.
Thứ ba, thực tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa của các quốc gia trên thế giới cũng cho thấy nguồn lực con người đóng vai trò quyết định, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ tư, trong nguồn lực con người thì bộ phận trực tiếp quyết định nhất là nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, tức là lực lượng lao động chất lượng cao đang trực tiếp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là lực lượng quyết định định hướng, quy mô, tốc độ, hiệu quả và sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ năm, trong bối cảnh cách mạng Khoa học công nghệ và Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay thì lực lượng này càng có ý nghĩa quyết định, bởi khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và là yếu tố luôn động, là động lực luôn phát triển của lực lượng sản xuất ở quy mô toàn cầu, đang làm biến đổi toàn bộ nền công nghiệp thế giới với tốc độ ngày càng nhanh.
Xét từ góc độ con người, trong cấu trúc của nguồn nhân lực và nhân lực, tức lực lượng đang tham gia lao động trực tiếp, bao hàm nhiều khía cạnh khác nhau từ thể lực, tâm lực, trí lực đến kỹ lực (kỹ năng và kỹ xảo của con người trong lao động, trong học tập và trong cuộc sống nói chung).
Xét từ góc độ xã hội, trong cấu trúc của nguồn nhân lực và nhân lực bao hàm số lượng, cơ cấu, chất lượng. Nhưng xét từ góc độ văn hóa thì các hệ giá trị chủ yếu: quốc gia, văn hóa, gia đình, con người và cộng đồng là yếu tố then chốt, cốt lõi và căn bản của nhân lực, của nguồn lực con người nói chung. Các hệ giá trị đó nằm sâu trong tất cả các yếu tố cấu thành nhân lực xét cả từ góc độ con người, cộng đồng, văn hóa, xã hội, quốc gia.
Xây dựng, phát huy và phát triển hệ giá trị Việt Nam
Định hướng giá trị được thực hiện theo thang giá trị, hệ giá trị và các giá trị cụ thể. Với mỗi xã hội, con người cụ thể, hệ giá trị thường bao hàm hệ giá trị chung, cốt lõi và hệ giá trị riêng, bộ phận, đặc thù, gắn liền với điều kiện, không gian - thời gian và chủ thể xác định. Thông thường, trên thế giới, khi các nước nêu hệ giá trị hay bảng giá trị của họ thì đều không nêu cụ thể được hết toàn bộ các giá trị của họ mà chỉ nêu một số giá trị có tính cốt lõi nào đó mà thôi.
Xây dựng, phát huy và phát triển hệ giá trị Việt Nam với các hệ giá trị cốt lõi, cơ bản là hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị cộng đồng, cả trên bình diện lý luận lẫn thực tiễn, thực sự đang là những vấn đề lớn cần được các khoa học đầu tư nghiên cứu.
PGS.TS Lương Đình Hải. Ảnh: Thảo Quyên/Lao động. |
Trong thực tế, có rất nhiều giá trị, hệ giá trị khác nhau. Một cách tương đối, chúng ta có các hệ giá trị cụ thể, bộ phận khác nhau, thí dụ hệ giá trị đạo đức, hệ giá trị xã hội, hệ giá trị truyền thống, hệ giá trị tộc người...
Mỗi người, mỗi cộng đồng đều có thể liệt kê cho mình một hệ giá trị không giống hoàn toàn với những người khác, cộng đồng khác, cả về số lượng, thành phần và vị trí của từng giá trị, mặc dù chắc chắn rằng trong đó sẽ có những giá trị giống nhau.
Việc xác định, khơi dậy, phát triển các hệ giá trị cốt lõi, cơ bản là hệ giá trị con người, gia đình, cộng đồng, văn hóa, quốc gia chung, thống nhất, được đông đảo các thành viên xã hội thừa nhận và lấy đó để định hướng suy nghĩ, hành vi, hoạt động, niềm tin là rất quan trọng. Đó chính là động lực, là định hướng, là khung khổ, là hành lang hoạt động của mỗi người, của mỗi chủ thể xã hội trong quá trình phát triển quốc gia giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến 2045.
Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị cộng đồng và hệ giá trị con người… của Việt Nam đã tồn tại, hoạt động và chi phối suy nghĩ, hành vi, hoạt động của cả cộng đồng và mỗi con người Việt Nam trong lịch sử. Xác định, xác lập được các hệ giá trị đó một cách chính xác, đầy đủ, ít ra cũng ở những giá trị cốt lõi đó, đủ để định hình được các hệ giá trị đó khác biệt với các hệ giá trị của các dân tộc - quốc gia khác, thể hiện được bản sắc của văn hóa, con người, xã hội, quốc gia Việt Nam thì mới có thể phát huy, khai thác và sử dụng chúng có hiệu quả.
Các hệ giá trị Việt Nam chủ yếu: quốc gia, văn hóa, gia đình, cộng đồng, con người luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, giao thoa với nhau. Những giá trị cốt lõi trong hệ giá trị con người cũng phải có và thể hiện trong hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và ngược lại. Những giá trị cốt lõi của hệ giá trị văn hóa bao hàm và thể hiện trực tiếp một số những giá trị con người.
Những giá trị như dân chủ, công bằng, bình đẳng vừa là giá trị xã hội, giá trị quốc gia, giá trị văn hóa, lại vừa là giá trị chung nhân loại, không thể không thể hiện trong hệ giá trị con người. Ở mỗi thời kỳ khác nhau chúng được thể hiện khác nhau, thứ bậc, trật tự trong mỗi hệ giá trị của chúng cũng khác nhau. Thí dụ chung thủy là giá trị hàng đầu trong hệ giá trị gia đình, sẽ trở thành giá trị trung thực trong hệ giá trị con người và hệ giá trị văn hóa...
Hiện nay khi nói về hệ giá trị Việt Nam hay về giá trị theo nghĩa chung, trong tâm thức mọi người theo thói quen và tập quán, khía cạnh đạo đức được nhắc đến trước tiên và trong cách hiểu chung luôn nặng về nội dung đạo đức, về trách nhiệm đối với con người, cộng đồng.
Trong hệ giá trị con người, gia đình cũng luôn có các giá trị văn hóa, các giá trị truyền thống, các giá trị đạo đức, các giá trị chung, phổ quát của nhân loại, của khu vực...
Nhưng giá trị đạo đức có sức nặng riêng, đặc biệt hơn trong hệ giá trị Việt Nam. Điều này có lẽ không chỉ do tập quán và thói quen truyền thống mà trong thực chất giá trị đạo đức trong các hệ giá trị Việt Nam có vai trò và có ảnh hưởng to lớn. Sức nặng của hệ giá trị văn hóa trong hệ giá trị Việt Nam là rất to lớn, bởi ảnh hưởng và tác động của nó đến con người và xã hội luôn hiện hữu, quyết định và chi phối sự biến đổi, phát triển và cả sự tồn vong của quốc gia - dân tộc.
Một dân tộc nếu đánh mất truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc, trong đó có hệ giá trị văn hóa, thì không thể tồn tại với tư cách là dân tộc độc lập và dân tộc ấy sẽ mất tất cả. Đây chính là nét đặc thù để xem xét và là điểm cần lưu ý khi xác định, xây dựng hệ giá trị Việt Nam, cũng như khi sử dụng và phát huy nó để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay và thời kỳ tiếp theo cho đến 2045.
Trong hiện thực nếu các hệ giá trị rối loạn thì xã hội đương nhiên là bất ổn, rối ren, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khó có thể diễn ra thuận lợi. Thứ nhất, sự rối loạn đó có thể phản ánh xã hội và quốc gia đang chuyển đổi sang giai đoạn phát triển mới.
Quá trình chuyển đổi đó tạo nên những điều kiện và tiền đề cho việc loại bỏ các giá trị đã lỗi thời, làm xuất hiện các giá trị mới mà thường gắn với các tầng lớp, bộ phận dân cư mới xuất hiện. Sự xung đột giữa các giá trị cũ sắp bị loại bỏ hoặc bị loại bỏ từng phần với các giá trị mới khiến cho xã hội mất định hướng giá trị; các hành vi, hoạt động của những con người, bộ phận dân cư khác nhau sẽ được đánh giá khác nhau.
Tình hình đó dẫn đến thậm chí sự xung đột trong định hướng, đánh giá và niềm tin, tạo ra sự rối loạn của xã hội. Những thang bậc đúng sai, tốt xấu, có lợi, có hại… đối với cộng đồng, cá nhân, có thể bị đảo lộn; xã hội hoặc một bộ phận dân cư nào đó, trong những trường hợp cụ thể, có thể sẽ bị mất định hướng giá trị.
Trong những thời đoạn như vậy vai trò của tầng lớp tinh hoa của xã hội, của truyền thông là rất quan trọng. Nếu họ không đảm đương được trách nhiệm định hình giá trị, củng cố niềm tin vào hệ giá trị và nhanh chóng điều chỉnh định hướng phù hợp với xu thế phát triển thì xã hội sẽ rối ren hơn, hệ lụy nặng nề kéo dài hơn.
Xã hội đang chuyển đổi sâu sắc, toàn diện, với cường độ và tốc độ nhanh chóng khiến cho các hệ giá trị Việt Nam, một mặt, cũng chịu thách thức ghê gớm, mặt khác, cũng có cơ hội mà chưa khi nào có được trong lịch sử, để chuyển đổi, hội nhập và phát triển mạnh mẽ.
Sự biến động của các hệ giá trị đang diễn ra dưới nhiều biểu hiện khác nhau: Có sự biến mất, triệt tiêu của các giá trị cũ vì điều kiện đã thay đổi, chúng không còn ý nghĩa đối với con người và xã hội (thí dụ: trung với vua); Có sự xuất hiện các giá trị mới (thí dụ: bình đẳng giới, nhân quyền); Có sự thay đổi thang bậc, vị thế của các giá trị (thí dụ: tinh thần quốc tế vô sản, tư duy sáng tạo); Có sự “đổi mới”, thay đổi từng phần nội dung các giá trị (thí dụ: giàu có, cần, kiệm); thu nhận và cải biến một số nội dung, giá trị bên ngoài (dân chủ, tự do ngôn luận)… Thậm chí, có sự xung đột giữa các giá trị (mới và cũ, bản địa và du nhập, chung và bộ phận…), có sự tiếp thu, làm giàu thêm hệ giá trị bản địa và có cả sự mở rộng tầm ảnh hưởng của nó ra khỏi phạm vi dân tộc - quốc gia.
Những biến động của các hệ giá trị Việt Nam đang diễn ra có ảnh hưởng đến mọi thành phần xã hội, đến mỗi con người, đến tiến trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nước nhà. Biến động của hệ giá trị hiện nay là một tất yếu của sự phát triển xã hội Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi với những bối cảnh đặc thù.
Điều đáng nói là dù biến động mạnh nhưng các giá trị cốt lõi của hệ giá trị Việt Nam: hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị cộng đồng, hệ giá trị con người vẫn phát huy vai trò định hướng, đánh giá và làm chuẩn mực và tiếp tục được phát huy, bổ sung, phát triển.
Quan niệm về hệ giá trị Việt Nam với các hệ giá trị chủ yếu: hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá, hệ giá trị cộng đồng, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị con người, hiện chưa được thống nhất trong giới học thuật và trong giới lý luận.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, có thể xem các quan điểm về xây dựng con người và xây dựng văn hóa của Đảng trong Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 5 khóa VIII (1998) và Hội nghị TW lần thứ 9 khóa XII (2014) về xây dựng văn hóa và con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững là cơ sở, là định hướng, là nội dung, là các giá trị cụ thể, trước hết là của hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị con người Việt Nam ở giai đoạn hiện nay.
Đặc biệt, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết hệ giá trị Việt Nam với những giá trị cốt lõi của các hệ giá trị quốc gia, văn hóa, con người và gia đình: “Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo.
Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”.
Kho tàng hệ giá trị Việt Nam là rất lớn, đa dạng và quý báu. Nó đang tiềm ẩn sức mạnh lớn lao. Việc khơi dậy, phát huy, phát triển và sử dụng nó một cách tốt nhất đã có đầy đủ điều kiện và tiền đề trong giai đoạn hiện nay.
PGS.TS Lương Đình Hải
Những giá trị cụ thể, cốt lõi đó thấm đẫm trong tất cả hệ giá trị Việt Nam, gắn bó chặt chẽ với tất cả các giá trị trong các hệ giá trị khác như hệ giá trị đạo đức, hệ giá trị cộng đồng, hệ giá trị chính trị...
Các giá trị và hệ giá trị trong bảng giá trị Việt Nam thống nhất, bổ sung cho nhau tạo nên cốt cách con người, văn hóa, đất nước Việt Nam ngày nay, chúng là bộ "gen di truyền”, là ID của Việt Nam được chắt lọc, trao truyền, xây dựng, phát triển qua các thế hệ.
Các giá trị cốt lõi, chủ yếu và các hệ giá trị chính trên đây trong bối cảnh hiện nay, một mặt, vừa giữ vai trò định hướng cho sự phát triển của quốc gia, của văn hóa, của gia đình, cộng đồng và của từng cá nhân.
Chúng là hành lang vận động, là “khung mẫu” cho hành động, cho tư duy, cho các hành vi, thậm chí cho cả điều hành, hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật của quốc gia, các quy ước, quy chế cộng đồng, cơ quan và của các cá nhân trong hệ thống chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng...
Các giá trị cốt lõi, chủ yếu nói trên vừa mang trong chúng cả tính kế thừa - kết tụ, tính “chế định”, tính vượt trước. Kế thừa - kết tụ bởi chúng là truyền thống, kết tinh các phẩm chất, tinh hoa, là kết quả của sự phát triển quốc gia, văn hóa, các cộng đồng, gia đình, con người Việt từ nghìn xưa tới nay.
Chế định là bởi chúng luôn là khuôn mẫu, hành lang tích cực và tiến bộ cho hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người và xã hội. Con người và xã hội luôn lấy chúng là mẫu hình, so sánh, đối chiếu, làm theo. Vượt trước bởi chúng là định hướng, là mục tiêu, là tiêu chí mà mọi người, cá nhân cũng như cộng đồng và xã hội luôn phải hướng tới, theo đó vươn lên, hoàn thiện và phát triển.
Hơn thế nữa các giá trị nói riêng, các hệ giá trị trong tổng thể hệ giá trị Việt Nam còn là nguồn lực, động lực của sự phát triển con người, văn hóa, gia đình, cộng đồng và quốc gia. Đó là nguồn lực nội sinh, nguồn lực đặc biệt. Nó luôn tiềm tàng ẩn chứa trong mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng, xã hội, và luôn cần được khơi dậy, làm bùng lên, phát huy, khai thác và phát triển cho cả hiện tại và tương lai.
Các giải pháp chủ yếu
Trong giai đoạn hiện nay, để phát huy, phát triển, khai thác tốt nhất hệ giá trị Việt Nam, mà cốt lõi là các hệ giá trị quốc gia, văn hóa, cộng đồng, gia đình và con người, ít nhất cần thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau đây:
Đổi mới nhận thức về hệ giá trị của toàn thể cộng đồng, toàn thể xã hội, trước hết là nhận thức của tầng lớp elite của xã hội.
Phát huy cao độ, định hướng sát, đúng, trúng vai trò của truyền thông về các hệ giá trị Việt Nam, nhất là về hệ giá trị quốc gia, văn hóa, gia đình, con người và đặc biệt là về các giải pháp xây dựng, phát huy, phát triển các hệ giá trị đó là rất quan trọng.
Xác lập, xây dựng, phát huy các hệ giá trị sẽ củng cố sự ổn định xã hội, cộng đồng, gia đình, đảm bảo an ninh con người, “giảm sốc” cho các biến động kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng… giúp con người, cộng đồng và xã hội “vững vàng”, bản lĩnh hơn, định hướng tốt hơn, hiệu quả hơn trước mọi biến động bên ngoài.
Các cấp ủy Đảng và chính quyền các các ngành, lĩnh vực, địa phương, trong quản lý, điều hành phải luôn chú ý sát, rất đúng, rất trúng vào thực tiễn hệ giá trị Việt Nam trong bảo vệ tổ quốc, xây dựng đất nước, phát triển địa phương, địa bàn, ngành, lĩnh vực.
Gắn kết chặt chẽ hơn nữa phát triển kinh tế - xã hội, phát triển con người, phát triển nhân lực tại từng ngành, lĩnh vực, địa bàn, địa phương với việc khai thác, phát huy, phát triển các hệ giá trị Việt Nam.
Trong hiện thực việc sử dụng các giải pháp luôn đòi hỏi nhiều điều kiện kèm theo, phù hợp và thường thay đổi. Nhưng việc sử dụng các giải pháp đồng bộ và phù hợp với điều kiện cụ thể cũng quan trọng không kém chính việc xác định nội dung giải pháp.
Kho tàng hệ giá trị Việt Nam là rất lớn, đa dạng và quý báu. Nó đang tiềm ẩn sức mạnh lớn lao. Việc khơi dậy, phát huy, phát triển và sử dụng nó một cách tốt nhất đã có đầy đủ điều kiện và tiền đề trong giai đoạn hiện nay. Đó là nhiệm vụ chung, là trách nhiệm, là điều kiện phát triển của tất cả các chủ thể xã hội khác nhau trong giai đoạn hiện nay.