Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Cựu binh già xây thành trên biển

Hằn sâu trên khuôn mặt dạn dầy sương gió là chí khí mạnh mẽ của người lính Công binh Hải quân một thời vác đá xây đảo Tiên Nữ.

Ông bảo: "Cuộc đời tôi gắn liền với Trường Sa và những công trình xây đảo. Hơn 20 năm vác đá xây Trường Sa, là ngần ấy thời gian khó khăn gian khổ, nhưng đó là những ngày tháng đẹp đẽ nhất của cuộc đời lính biển".

Ông là Phạm Văn Minh quê ở xã Nga Liên, huyện Nga Sơn (tỉnh Thanh Hóa), hiện cùng vợ con sinh sống tại Quảng Ninh - người cả đời gắn bó với các công trình quần đảo Trường Sa.

Năm tháng không quên

Đêm đầu tiên trên con tàu HQ - 936 của Vùng 4 hải quân chở đoàn đại biểu góp đá xây Trường Sa đi thăm quân dân huyện đảo, trong khi mọi người xem phim tư liệu Tổ quốc nơi đầu sóng thì một người đàn ông đứng phía mũi tàu nhìn xa xăm.

Ông chia sẻ: “Cho dù có đi hết cuộc đời, những năm tháng xây đảo Trường Sa vẫn không thể nào quên trong ký ức tôi. Lính công binh Hải quân cuộc đời đẹp nhất là đi Trường Sa xây đảo”.

Sau năm 1985, chủ trương của Đảng và nhà nước ta tiếp tục đưa bộ đội hải quân ra Trường Sa ở một số bãi cạn ngầm, khẳng định cột mốc chủ quyền và xây những công trình nhà ở lâu bền trên phần đảo của Tổ quốc. Khi ấy ông Phạm Văn Minh là Đại đội trưởng Đại đội 10 thuộc trung đoàn 131 Công binh Hải quân.

Cựu binh Phạm Văn Minh ngồi trên đá Trường Sa hồi tưởng lại một thời xây đảo.

“Lúc đó tôi nghĩ, việc xây đảo và khẳng định chủ quyền trên phần đất của Tổ quốc mình là sứ mệnh của người lính trên tuyến đầu chứ không nghĩ đến khó khăn gian khổ. Đi đảo ngày ấy là một niềm vinh dự lớn lao, tự hào và vinh quang vô cùng”, ông Minh nói.

Một ngày cuối tháng 3/1988, đại úy Phạm Văn Minh đưa 36 cán bộ chiến sĩ lên tàu hải quân vượt sóng ra bãi cạn Tiên Nữ xây đảo. Bấy giờ, vào những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, các đảo lớn, nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa vẫn còn hoang sơ, chủ yếu là đảo chìm. Khi thủy triều xuống, đảo nhô lên khỏi mặt nước, thủy triều lên đảo chìm sâu dưới biển. Thời tiết vô cùng khắc nghiệt, ban ngày nắng cháy da, đêm phải đắp chăn chống lại sương biển và hơi muối mặn.

Để đẩy nhanh tiến độ xây đảo, ông Minh và các chiến sĩ phải chạy đua với thời gian, bất chấp thời tiết nắng, mưa, hễ thủy triều xuống là đi vác đá từ tàu vào đảo. Do ngâm trong nước biển mặn lâu ngày, chân, tay ông đều bị bong tróc, tóc lúc nào cũng cứng và đỏ quạch như rễ tre, da đen nhẻm. Dưới cái nắng 40 độ C và gió rát mặt, các chiến sĩ chỉ nhận ra nhau bằng hàm răng trắng và ánh mắt sáng.

“Ngày ấy vác đá không có tấm bảo hộ kê vai như bây giờ nên chỉ sau 3 ngày là vai áo chiến sĩ rách bươm. Chúng tôi nghĩ ra cách gấp đôi chiếc bao tải, đặt lên vai làm lót vác đá cho đỡ đau. Thức ăn của chiến sĩ ngày ấy cũng chủ yếu là đồ hộp và rau muống phơi khô đem ra từ đất liền. Do không có thực phẩm tươi, nhiều chiến sĩ bị đau bụng, kiết lị. Nhiều đêm giông bão ầm ầm, anh em ngồi bên nhau kể chuyện quê nhà, cây đàn ghi ta bập bùng, lời bài hát Đời mình là một khúc quân hành vang lên trong màn đêm lẫn vào sóng nước”, ông Minh nhớ lại. 

Và sau những phút giây vui tươi ấy là khoảng lặng. Trong sâu thẳm trái tim, ông Minh nhớ đất liền, thương mẹ già ở quê, nhớ người bạn gái bịn rịn chia tay trước lúc lên đường. Nói về chuyện vác đá rách vai, giọng ông Minh chùng xuống, xúc động: “Vết xước của đá trên vai càng nhiều, mình càng thấy yêu Tổ quốc. Đá càng nặng, tình yêu Tổ quốc càng sâu, thương đồng đội càng nhiều. Vác đá trên vai là vác trọng trách của Đảng và nhân dân giao phó”.

Những khó khăn ấy chưa phải là tận cùng, vào một chiều tháng 7/1988, sau gần 6 ngày vật lộn với nắng gió, một Loa thành nữa gần hoàn thành. Bỗng nhiên trời nổi cơn dông, sấm chớp ầm ầm, mưa như trút nước. Nhìn bức tường vừa xây xong chưa kịp ráo vữa bị mưa biển xói mòn, anh em ôm nhau khóc. Trong nước mắt, hình ảnh ngôi nhà giữa biển khơi với lá cờ đỏ sao vàng bay trên nóc đảo lấp lánh trong tim ông. Mặc cho bức tường mới xây sạt lở phân nửa, sau cơn giông, ông lại chỉ huy các chiến sĩ khẩn trương bắc giàn giáo, trộn hồ xếp từng viên đá vào lòng biển.

Tổ quốc gọi tôi sẵn sàng

Ông Minh (đứng thứ 2 từ phải qua) trong đoàn góp đá xây Trường Sa chào cờ cùng cán bộ chiến sĩ đảo Nam Yết.

 “Nếu được trở lại quân ngũ, cho tôi xin trở lại Trường Sa để tiếp tục xây đảo. Trường Sa với tôi là máu thịt thiêng liêng nhất. Từng viên đá xây đảo, từng ngôi nhà lâu bền đã thấm mồ hôi công sức, nhuộm máu đồng đội. Những ngày xây đảo là những ngày hoa lửa đẹp đẽ nhất của cuộc đời tôi”.

Hơn 20 năm chân trần vác đá xây đảo Nam Yết, Tốc Tan, Tiên Nữ, Trường Sa Lớn, cựu binh Minh cảm nhận được sự hy sinh thầm lặng của những người lính công binh thời bình. Tất cả những mất mát đau thương gian khổ năm xưa, bây giờ là hoài niệm thiêng liêng trong ông.

Ông là nhân chứng sống những câu chuyện kể về xây đảo những năm 80 của thế kỷ trước, mà còn là người truyền lửa và hâm nóng tình yêu biển đảo cho thế hệ cán bộ chiến sĩ Trường Sa và lớp trẻ. “Từng viên đá, nắm cát Trường Sa đều mang hồn thiêng Tổ quốc. Trường Sa là phần đất không tách rời của Việt Nam, bảo vệ giữ gìn Trường Sa là trách nhiệm của đời đời con cháu”, ông Minh quả quyết.

Hơn 20 năm vác đá xây đảo, hành trang của người cựu công binh xây Trường Sa trở về đời thường chẳng có gì quí hơn ngoài tình yêu Tổ quốc mãnh liệt. Cốt lõi của tinh thần yêu nước ấy, ông nén chặt bằng những vần thơ, và coi đó là nhựa sống của một thời hoa lửa đẹp đẽ nhất.

http://www.phuongnam.net.vn/1-21-542-Cuu-binh-gia-xay-thanh-co-loa-tren-bien.html

Theo Phương Nam Online

Bạn có thể quan tâm