Trao đổi với Zing, Giáo sư Edmund Malesky (Đại học Duke, Mỹ; trưởng nhóm thực hiện Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI) và Tiến sĩ Paul Schuler (Đại học Arizona, Mỹ; thành viên nhóm nghiên cứu Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh PAPI) phân tích những thành công của chính phủ nhiệm kỳ vừa qua, và chia sẻ những kiến nghị để thúc đẩy công cuộc đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
Thành tựu của chính phủ tiền nhiệm
- Ông nhìn nhận thế nào về những điều chính phủ nhiệm kỳ qua đã thực hiện được?
- Giáo sư Edmund Malesky: Tôi nghĩ nhiệm kỳ 5 năm của chính phủ vừa qua rất ấn tượng, và họ đã thể hiện vượt ngoài kỳ vọng. Nếu chúng ta nhìn vào sự cải thiện về quản trị công, theo thời gian, nạn tham nhũng đã giảm. Tôi chứng kiến xu hướng này thể hiện qua các khảo sát PCI và PAPI. Tình trạng doanh nghiệp và người dân phải hối lộ, đút lót đều giảm. Thành quả này là nhờ chiến dịch chống tham nhũng, cũng như cách chiến dịch làm thay đổi quá trình hoạch định chính sách.
Giáo sư Malesky phát biểu tại một sự kiện do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức. Ảnh: NVCC. |
Bạn có thể thấy rất rõ là chính phủ từng đề ra những kế hoạch lớn hồi năm 2016. Và họ nỗ lực thực hiện các kế hoạch này, chẳng hạn việc phát triển khu vực tư, và kết nối khu vực này với các doanh nghiệp nước ngoài hiệu quả hơn. Nhìn chung, tôi nghĩ chính phủ vừa qua đang trên đà thể hiện thành công.
Tôi nghĩ Covid-19 là "bài kiểm tra" lớn nhất với chính phủ của nhiệm kỳ trước. Trên mọi phương diện, họ thể hiện vô cùng tốt.
Điển hình là việc minh bạch hóa về quá trình chống dịch. Mọi người có thể biết thông tin về các ca nhiễm, việc truy vết trong cộng đồng đang diễn ra ở đâu, sự minh bạch về chính sách, cách quản lý nỗ lực chống dịch, cách khống chế virus lây lan.
Và qua việc triển khai tiêm chủng cho người dân, bạn có thể thấy một năng lực kỹ trị hiệu quả. Đó là công trạng rõ ràng mà chính quyền xứng đáng được ghi nhận. Nhìn chung, với những người không tiếp tục tham gia chính phủ mới, họ có thể kết thúc nhiệm kỳ với tâm thế rằng mình đã góp phần duy trì tăng trưởng một cách đáng kinh ngạc và hiệu quả.
- Tiến sĩ Paul Schuler: Tôi cho rằng chính phủ tiền nhiệm thành công trong nỗ lực đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Dù Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) không thành hiện thực, Việt Nam vẫn trở thành thành viên của hiệp định mới thay thế, mang tên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Ngoài ra, Việt Nam cũng ký kết và trở thành đối tác của Liên minh châu Âu trong thỏa thuận thương mại tự do song phương mới (EVFTA).
Tôi đánh giá cao việc chính phủ tiền nhiệm duy trì định hướng xuất khẩu cho kinh tế Việt Nam. Giới lãnh đạo rất quan tâm đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng tồn tại của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) trong nền kinh tế. Luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, được ban hành năm 2017, như sự nhìn nhận rằng nhóm này cần cạnh tranh và hiệu quả hơn.
Chính phủ của nhiệm kỳ trước cũng đạt được những bước tiến quan trọng trong công tác giảm thiểu tham nhũng. Chiến dịch nâng cao mức độ nhận thức về tham nhũng và cải thiện sự hiệu quả của bộ máy hành pháp.
Tất nhiên, không thể bỏ qua thành tựu trong kiểm soát và phòng chống đại dịch của chính phủ trước. Cả bộ máy rõ ràng nhận thức vấn đề rất sớm và nhanh chóng hành động. Điều này giải thích vì sao nền kinh tế Việt Nam, dù ghi nhận tăng trưởng giảm, vẫn tránh được những thiệt hại nặng nề so với một số nền kinh tế trong khu vực.
Chính phủ nhiệm kỳ trước đã vượt qua bài kiểm tra lớn về ứng phó với đại dịch Covid-19, giúp Việt Nam vẫn đạt được tăng trưởng dương trong năm 2020. Ảnh: Duy Hiệu. |
Đẩy mạnh cải cách cấp địa phương
- Ông kỳ vọng thế nào với chính phủ mới của Việt Nam?
- Tiến sĩ Paul Schuler: Trong nhiệm kỳ tới, tôi cho rằng quá trình cải cách ở cấp địa phương là điều chú ý nhất. Trong đại dịch, chúng ta đã thấy vai trò quan trọng của những người đứng đầu và cán bộ địa phương trong việc khuyến khích người dân tuân thủ các quy trình kiểm dịch. Đội ngũ này cũng đóng vai trò quan trọng trong phân bổ các gói trợ cấp của chính phủ tới từng hộ gia đình.
Tiến sĩ Paul Schuler. Ảnh: Papivn. |
Tôi cho rằng một trong những thách thức khác mà chính phủ Việt Nam sẽ phải đối mặt là nhu cầu năng lượng ngày càng tăng. Việt Nam là một trong những quốc gia được dự báo sẽ có nhu cầu năng lượng tăng cao đáng kể. Điều này xảy ra vì dân số ngày càng đông, thu nhập của người dân cũng cao hơn; và tăng trưởng kinh tế cũng đòi hỏi nhu cầu năng lượng nhiều hơn.
Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối diện với khó khăn khi các nguồn năng lượng tái tạo còn khá hạn chế. Thủy điện không hẳn là cách làm tốt để bảo vệ môi trường.
Tôi nghĩ câu hỏi quan trọng là chính phủ Việt Nam sẽ cân bằng nhu cầu về năng lượng với bảo vệ môi trường như thế nào. Các nhà máy điện khí hóa lỏng có lẽ là lựa chọn đáp ứng được cả hai tiêu chí môi trường và năng lượng. Việc mở rộng các nguồn năng lượng tái tạo chắc chắn là điều quan trọng.
Một vấn đề khác, tôi nghĩ chính phủ cần kiểm soát EVN để đơn vị này hiệu quả hơn, bảo đảm rằng điện năng sản xuất ra sẽ không bị lãng phí hoặc sử dụng kém hiệu quả, cũng như cần tận dụng tốt các nguồn lực mà họ đang có.
Hướng đến nền kinh tế đổi mới sáng tạo
- Ông chia sẻ gì về tầm nhìn hướng tới nền kinh tế đổi mới sáng tạo của Việt Nam?
- Giáo sư Edmund Malesky: Đầu tiên, theo cách nhìn của tôi thì Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp. Ở những năm đầu cải cách, những biện pháp đầu tiên vốn là khó nhất, nhưng thực ra lại là dễ nhất. Bởi nhiệm vụ là giảm dần vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế, giảm sự tác động bóp méo của các tập đoàn nhà nước, giảm thiểu gánh nặng về giấy phép và quy định kinh doanh.
Do vậy, chỉ cần hạn chế vai trò này, giúp tư nhân và các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, là điều then chốt đầu tiên, và Việt Nam đã làm rất tốt. Đối với tôi, cải cách quan trọng nhất chính là Luật Doanh nghiệp năm 2000. Kể từ khi luật này được ban hành cho đến thời điểm này, hơn 600.000 công ty tư nhân đang hoạt động ở Việt Nam.
Nhưng giai đoạn kế tiếp chính là phần khó nhất, vì Việt Nam cần phải phát triển, cần xây dựng những nền tảng thích hợp để hướng đến một nền kinh tế đổi mới sáng tạo.
Để làm được điều này, điều đầu tiên là cần xây dựng một nền giáo dục đại học - cao đẳng khuyến khích sáng tạo và kỹ năng giải quyết vấn đề, vì đó là cơ bản để tạo nên những đột phá công nghệ và đổi mới, và dám chấp nhận những rủi ro khởi nghiệp.
Điều này đang dần được bắt đầu bằng Luật giáo dục đại học sửa đổi 2018. Một số trường đại học tư thục với tinh thần sáng tạo đổi mới đang hình thành ở Việt Nam, như Đại học Fulbright Việt Nam hoặc Đại học Vin. Nhưng điều này không nên chỉ hạn chế ở các trường tư thục, mà nên mở rộng hơn nữa.
Kế đến, Việt Nam sẽ cần nâng cấp cơ sở hạ tầng mới. Trước đây chúng ta nói về đường bộ, cầu, cảng, tính kết nối. Nhưng với một nền kinh tế đổi mới sáng tạo, chúng ta sẽ nói nhiều hơn về tỷ lệ mở rộng độ phủ của Internet và điện, về băng thông, wifi...
Giáo sư Malesky cho rằng cơ sở hạ tầng trong nền kinh tế đổi mới sáng tạo là mở rộng độ phủ của Internet và điện, về băng thông, wifi. Ảnh: Quỳnh Danh. |
Sau đó sẽ là những khoản kinh phí đầu tư quan trọng. Việc đưa ra quyết định không hề dễ dàng, nhưng các lãnh đạo cần xây dựng hạ tầng thiết yếu cho giai đoạn mới của nền kinh tế. Nhiệm vụ càng thêm khó khăn khi các lãnh đạo vẫn phải tiếp tục duy trì sự hiệu quả của mô hình kinh tế trước đây.
Điều quan trọng tiếp theo là cần xây dựng cơ chế để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả hơn, nhằm bảo vệ quyền lợi của những nhà khởi nghiệp sáng tạo - không chỉ trong lĩnh vực công nghệ, mà còn ở nhiều khía cạnh khác như bảo vệ thương hiệu, hoặc dây chuyền kinh doanh, bảo vệ các ý tưởng. Đó sẽ là những vấn đề rất quan trọng.
Cuối cùng, điều mà tôi luôn nhấn mạnh, là xây dựng thể chế về việc thực thi hợp đồng. Chẳng hạn, tôi cần biết nếu tôi ký kết hợp đồng với ai đó ở Việt Nam, tôi sẽ được đối xử công bằng.
Việt Nam đã nỗ lực thực hiện điều này khi thành lập các trung tâm trọng tài, trung tâm hòa giải. Việc gia nhập CPTPP là lợi thế lớn vì điều đó tạo niềm tin cho mọi người về những cơ sở trọng tài. Tuy nhiên, tôi nghĩ như vậy vẫn chưa đủ để giải quyết tất cả vấn đề có thể phát sinh từ các tranh chấp tiềm tàng.
Cho nên việc thực hiện một quá trình cải cách pháp lý chặt chẽ, và suy nghĩ về cách lập những thể chế bảo vệ quá trình thực thi hợp đồng, sẽ là điều rất quan trọng để tiến tới giai đoạn mới của nền kinh tế.
Chuyên gia cho rằng cần thuyết phục những tập đoàn có nguồn vốn lớn đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, mang lại giá trị gia tăng cao. Ảnh: Hoàng Hà. |
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, thúc đẩy tập đoàn tư nhân lớn
- Tiến sĩ Paul Schuler: Tôi cho rằng điều quan trọng là sự khuyến khích của Nhà nước với doanh nghiệp để đầu tư vào những ngành then chốt. Tôi nhận thấy trí tuệ nhân tạo là lĩnh vực mà chính phủ Việt Nam đang quan tâm.
Tuy nhiên, việc thực hiện lại phụ thuộc vào ý nguyện của những người nắm giữ nguồn lực. Những chủ doanh nghiệp thường muốn đầu tư vào những danh mục an toàn nhất và mang lại lợi nhuận nhanh nhất - thông thường đó sẽ là bất động sản và xây dựng. Vậy nên, điểm mấu chốt sẽ là làm sao thuyết phục các doanh nhân chịu đầu tư vào công nghệ cao thay vì bất động sản.
Tôi nghĩ có hai cách để thúc đẩy. Đầu tiên là khuyến khích ngân hàng cho các công ty trong các lĩnh vực nói trên vay ưu đãi. Điều này lại cần sự tái cấu trúc của lĩnh vực ngân hàng và sau đó là tại các tập đoàn tư nhân lớn. Việt Nam có nhiều doanh nghiệp bất động sản khổng lồ với sự ảnh hưởng lớn. Các công ty trên không do Nhà nước sở hữu, song họ lại là nguồn vốn mới của nền kinh tế.
Chúng ta có thể thấy Vingroup đã bắt đầu đầu tư vào ôtô, điện thoại thông minh và một số lĩnh vực liên quan. Điểm mấu chốt mà tôi sẽ quan sát trong những năm tới là mức độ thành công của những tập đoàn như Vingroup, không chỉ ở trong nước mà khả năng cạnh tranh của sản phẩm mà họ tạo ra trên thị trường quốc tế.
Hàn Quốc và Nhật Bản là hai ví dụ điển hình về các quốc gia có khả năng kêu gọi các tập đoàn tư nhân - trong đó có nhiều doanh nghiệp bất động sản - chuyển đổi thành các tập đoàn công nghệ cao, với giá trị gia tăng cao.
Tôi nghĩ Việt Nam đang trong một vị thế thuận lợi, khi có nhiều doanh nghiệp quy mô với nguồn vốn lớn. Tôi cho rằng tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam sẽ phần nào phụ thuộc vào việc liệu các khoản đầu tư vào những lĩnh vực mang lại giá trị gia tăng có được đền đáp hay không.
Ngoài ra, để trở thành một nền kinh tế đổi mới sáng tạo, Việt Nam cần có khả năng thu hút những người tài trên toàn cầu, có nguồn nhân lực trình độ cao, và quan trọng hơn là cơ chế bảo vệ sở hữu trí tuệ.
Kế đến là cần nâng cao chất lượng giáo dục bậc cao (đại học trở lên). Thung lũng Silicon là ví dụ điển hình về sự thành công của các công ty công nghệ cao, song việc nó nằm cạnh nhiều trường đại học hàng đầu thế giới không phải điều ngẫu nhiên.
Đại học Fulbright Việt Nam (FUV) là đại học phi lợi nhuận, theo tinh thần khai phóng, độc lập. Ảnh: ĐH Fulbright VN. |
Tôi nhìn thấy Việt Nam đang cố đẩy mạnh chất lượng của nền giáo dục đại học. Ngay cả VinGroup cũng tham gia vào lĩnh vực này, các trường đại học tư như Đại học Fulbright, cũng được thành lập.
Vì vậy, tôi nghĩ rằng các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam sẽ có vai trò quan trọng trong việc quyết định tương lai Việt Nam có thể tăng tính cạnh tranh trên trường quốc tế hay không.
Điều này không chỉ quan trọng với một nền kinh tế đổi mới sáng tạo, mà còn quan trọng cho việc thăng hạng trong chuỗi giá trị toàn cầu. Một điều có thể cản trở và khiến Việt Nam khó thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình là không tạo ra nguồn nhân lực nắm các vị trí quản lý trong những doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài. Và đó là lý do mà chất lượng giáo dục đại học lại càng là vấn đề quan trọng.
- Ông có thể chia sẻ thêm những gợi mở về cách thoát khỏi "bẫy" này?
- Tiến sĩ Paul Schuler: Nhiều quốc gia trên thế giới đang mắc kẹt trong tình thế nan giải mang tên bẫy thu nhập trung bình. Động lực thúc đẩy nền kinh tế từ yếu tố “giá rẻ” của nguồn lao động vơi dần, trong bối cảnh chi phí cho lực lượng này đang cao hơn.
Đặc biệt, các quốc gia sẽ kẹt lại ở “bẫy” này nếu họ chưa có các doanh nghiệp nội địa có khả năng bứt phá. Đây chính là điểm khác biệt của các nền kinh tế như Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Họ thành công khi phát triển mạng lưới doanh nghiệp nội địa cùng đầu tư vào xây dựng và bất động sản. Sau đó, khuyến khích những doanh nghiệp này tập trung nguồn vốn vào sản xuất ôtô, công nghệ cao và điện tử.
Ngay cả các doanh nghiệp cũng tận dụng ưu đãi từ chính phủ, để tạo ra các sản phẩm đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Do vậy, việc khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hội nhập với chuỗi giá trị toàn cầu là yếu tố quan trọng.
Mặt khác, như tôi đã nói về các tập đoàn lớn trong nước, nên nghĩ làm sao để bảo đảm việc đầu tư của các tập đoàn này vào các ngành có giá trị gia tăng cao sẽ thành công.
Những tập đoàn này chắc chắn cũng sẽ cạnh tranh với nhau. Để lấy ví dụ minh họa, trong quá khứ, Hàn Quốc không chỉ hỗ trợ một công ty lớn, mà nước này tạo môi trường cạnh tranh cho nhiều công ty, buộc họ phải chứng minh năng lực cạnh tranh quy mô thế giới của mình, nếu muốn tiếp tục nhận hỗ trợ từ chính phủ.