Bước TIẾN PHI THƯỜNG CỦA QUAN hệ việt - mỹ sau 25 năm
Sau 25 năm, Việt - Mỹ đã thực sự là đối tác tin cậy và có tình hữu nghị được xây dựng trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau.
Năm 1995, khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố Mỹ bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam, hai nước chúng ta gần như không có quan hệ về thương mại và quan hệ giữa nhân dân hai nước còn rất hạn chế.
Ngày nay, trong một loạt các lĩnh vực như thương mại, phát triển, giáo dục, y tế, năng lượng và an ninh, Mỹ và một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập đang hợp tác cùng nhau với cam kết chung vì hoà bình và thịnh vượng.
Chúng ta đã thực sự là đối tác tin cậy và có tình hữu nghị được xây dựng trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau.
Gạt bỏ khác biệt, nhìn nhận lịch sử và hướng về phía trước
Khi nhìn vào những gì chúng ta đã cùng đạt được thì những bước tiến của quan hệ song phương Mỹ - Việt Nam trong 25 năm qua thật phi thường.
Những người tiền nhiệm của chúng ta đã gạt bỏ các khác biệt, nhìn nhận lịch sử và cam kết hướng về phía trước như những người bạn chứ không phải những người đối đầu.
Các cựu chiến binh và gia đình họ ở cả hai phía là những người đầu tiên đối mặt với quá khứ và bắt đầu xây dựng cầu nối để chính phủ hai nước có thể gắn kết thành công.
Những bước tiến của quan hệ song phương Mỹ - Việt Nam trong 25 năm qua thật phi thường.
Người Mỹ và người Việt đã bắt đầu hợp tác để giải quyết các vấn đề nhân đạo và những vấn đề chiến tranh để lại từ nhiều năm trước khi bình thường hoá quan hệ.
Kể từ năm 1988, các nhóm công tác của Mỹ và Việt Nam đã hợp tác để tìm kiếm và trao trả hài cốt các quân nhân đã ngã xuống, và năm 1991, Văn phòng Tìm kiếm Tù binh và Người mất tích của Bộ Quốc phòng Mỹ đã mở cửa tại Hà Nội.
Trong nhiệm kỳ Tổng thống George H.W. Bush, Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) đã bắt đầu hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam thông qua Quỹ hỗ trợ Nạn nhân Chiến tranh Leahy. Từ năm 1993, Mỹ và Việt Nam bắt đầu hợp tác để giúp Việt Nam loại bỏ hiểm họa từ vật liệu chưa nổ (UXO).
Chúng ta cũng từng bước xây dựng các hoạt động giao lưu nhân dân, như mở Chương trình Fulbright vào năm 1992, sau đó thành lập Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright (FETP) vào năm 1994. Những chương trình này đã đào tạo hàng nghìn nhà hoạch định chính sách, nhà giáo dục và lãnh đạo doanh nghiệp.
Tôi xin lấy hai ví dụ trong số rất nhiều người, đó là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng tham gia chương trình FETP và Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh từng nhận học bổng Fulbright để theo học tại Mỹ.
Những bước đi đầu tiên này đã đặt nền móng cho việc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao và mở cửa hai đại sứ quán tại Washington và Hà Nội vào năm 1995. Sau đó, vào năm 1997, Thượng viện Mỹ xác nhận ông Douglas "Pete" Peterson là đại sứ đầu tiên của Mỹ tại Việt Nam.
Những chương trình này đã đào tạo hàng nghìn nhà hoạch định chính sách, nhà giáo dục và lãnh đạo doanh nghiệp.
Đại sứ Peterson, người đã từng là phi công của Không quân Mỹ trong cuộc chiến ở Việt Nam và có hơn sáu năm là tù binh chiến tranh, đã dành cả nhiệm kỳ để hàn gắn và xây dựng mối quan hệ dài lâu giữa Việt Nam và Mỹ.
"Tôi muốn hàn gắn những vết thương giữa Mỹ và Việt Nam. Hai dân tộc chúng ta cùng chia sẻ một lịch sử đau thương. Không ai có thể thay đổi điều đó, nhưng chúng ta có thể cùng nhau làm rất nhiều việc cho tương lai. Và đó là lý do tôi có mặt ở Việt Nam", ông nói.
Tương lai chung lòng tin, hòa bình và thịnh vượng
Đại sứ Peterson không phải người duy nhất tin rằng ông có thể làm "rất nhiều việc cho tương lai" của quan hệ Mỹ - Việt Nam. Các nhân vật quan trọng trong chính phủ hai nước, bao gồm cố Thượng nghị sĩ John McCain, Thượng nghị sĩ Patrick Leahy, cựu Ngoại trưởng John Kerry, Đại sứ Lê Văn Bàng, cố Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm và rất nhiều người khác đã ủng hộ cho một tương lai chung với lòng tin, hoà bình và thịnh vượng.
Như Ngoại trưởng Mike Pompeo đã phát biểu, “Trong quá khứ, chúng ta là đối thủ trên chiến trường. Nhưng ngày nay, quan hệ an ninh giữa chúng ta là quan hệ hợp tác", sự hợp tác đó diễn ra ở mọi cấp độ, từ các chuyến thăm cấp cao của Bộ trưởng Quốc phòng tới những nam nữ quân nhân phục vụ trong quân đội của chúng ta.
Ví dụ, trong ba năm qua, Lực lượng Tuần duyên Mỹ đã chuyển giao 24 xuồng tuần tra và một tàu tuần duyên nặng 3.000 tấn, dài 115 m cho Cảnh sát biển Việt Nam, và các thành viên của Lực lượng Tuần duyên Mỹ đã cùng thuỷ thủ đoàn Việt Nam đưa tàu về Việt Nam.
Trong chuyến thăm Hà Nội vào tháng 11/2019, Bộ trưởng Quốc phòng Mark Esper đồng ý mở rộng chương trình này bằng việc chuyển giao tàu tuần duyên thứ hai vào năm 2020.
Các sĩ quan Việt Nam đang tiếp tục tham gia chương trình đào tạo quân sự chuyên nghiệp tại các trường tham mưu của Mỹ và mới đây hai phi công Việt Nam đã tham gia chương trình huấn luyện cùng các sĩ quan Mỹ trong Chương trình Lãnh đạo Hàng không của Không quân Mỹ.
Ba năm qua, Lực lượng Tuần duyên Mỹ đã chuyển giao 24 xuồng tuần tra và một tàu tuần duyên nặng 3.000 tấn, dài 115 m cho Cảnh sát biển Việt Nam.
Các quân nhân Mỹ đang tiếp tục hợp tác với những người đồng cấp Việt Nam để thực hiện hỗ trợ nhân đạo và trao đổi văn hoá trong khuôn khổ Chương trình Đối tác Thái Bình Dương thường niên. Và chúng tôi rất vui mừng khi thông báo rằng hè năm nay, Việt Nam sẽ lần đầu tiên cử cán bộ tham gia đào tạo tại Học viện Không quân Mỹ.
Quan hệ hợp tác của chúng ta tiếp tục phát triển trong nhiều lĩnh vực quan trọng khác, bao gồm gìn giữ hoà bình, rà phá bom mìn, hỗ trợ nhân đạo và ứng phó với thảm hoạ, thực thi pháp luật và cải cách hệ thống tư pháp hình sự.
Lãnh đạo doanh nghiệp của Mỹ và Việt Nam đang ngày ngày phát triển những mối quan hệ thương mại vững mạnh giúp quan hệ thương mại ngày càng tăng trưởng hơn.
Chúng ta đã đi từ chỗ gần như không có giao thương cách đây 26 năm tới kim ngạch thương mại hai chiều ngày nay đạt hơn 77 tỷ USD.
Nhiều công ty lớn của Mỹ đã đầu tư nhiều tỷ USD vào cả khu vực sản xuất và cơ sở hạ tầng của Việt Nam, và chúng tôi kỳ vọng những khoản đầu tư của Mỹ vào năng lượng và cơ sở hạ tầng sẽ tiếp tục và thậm chí còn tiến triển nhanh hơn trong khuôn khổ Tầm nhìn Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Cùng nhau, các doanh nghiệp hai nước sẽ tiếp tục đổi mới sáng tạo và lớn mạnh.
Tôi tin rằng sự hợp tác giữa chúng ta nhằm đảm bảo lưu thông hàng hoá và đầu tư tự do và công bằng giữa hai nước sẽ tiếp tục đóng góp cho sự thịnh vượng chung của cả hai nước. Và chúng ta cam kết không chỉ phát triển kinh tế mà còn phát triển bền vững.
Đầu tư vào quan hệ đối tác trong tương lai của chúng ta nghĩa là tạo cơ hội để giới trẻ của chúng ta bắt đầu xây dựng tình hữu nghị dài lâu.
Để đạt được điều này, chúng tôi hợp tác với Việt Nam để bảo vệ và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên của các bạn - cùng nhau chúng ta đang đầu tư vào quản lý rừng bền vững; chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không được quản lý, cũng như chống buôn bán động thực vật hoang dã bất hợp pháp và cải thiện chất lượng không khí và nước.
Đầu tư vào quan hệ đối tác trong tương lai của chúng ta nghĩa là tạo cơ hội để giới trẻ của chúng ta bắt đầu xây dựng tình hữu nghị dài lâu. Được thành lập năm 2000, Quỹ Giáo dục Việt Nam đã cung cấp gần 600 suất học bổng cho sinh viên Việt Nam theo học chương trình thạc sĩ và tiến sĩ trong các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học.
Hiện nay, các cựu sinh viên chương trình VEF đang giảng dạy tại các trường đại học trên khắp Việt Nam, góp phần đào tạo thế hệ các nhà khoa học và kỹ sư tương lai cho Việt Nam.
Hàng năm, hàng chục nghìn công dân trẻ Việt Nam theo học tại các trường đại học tại Mỹ. Họ đóng góp cho chất lượng học thuật tại các trường đại học của chúng tôi, và khi trở về Việt Nam, với nền tảng giáo dục đẳng cấp thế giới, họ đóng góp cho nền kinh tế đang tăng trưởng của Việt Nam.
Mọi thứ chúng ta đạt được đều được xây dựng dựa trên dũng khí, thiện chí và nỗ lực từ những người đi trước.
Bên cạnh việc giúp sinh viên Việt Nam theo đuổi việc học tập tại Mỹ, chúng tôi cũng hỗ trợ Việt Nam hiện đại hoá hệ thống giáo dục đại học. Chúng tôi tự hào hỗ trợ trường Đại học Fulbright Việt Nam (FUV), trường đại học tư thục, độc lập và phi lợi nhuận đầu tiên của Việt Nam, ngôi trường có sự kết hợp truyền thống và di sản văn hoá dồi dào của Việt Nam với truyền thống đặt vấn đề rộng mở, nghiên cứu và phân tích mang tính phản biện của giáo dục đại học Mỹ.
FUV đang mang lại những chuẩn mực giáo dục đại học đẳng cấp thế giới tới Việt Nam và giúp khai phóng tiềm năng to lớn của ngành giáo dục Việt Nam.
Mặc dù quan hệ đối tác của chúng tôi với Việt Nam vẫn tập trung chủ yếu vào tương lai nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục hợp tác tích cực trong việc giải quyết các vấn đề nhân đạo và những vấn đề chiến tranh để lại.
Chúng ta làm như vậy vì nhận thấy những vấn đề này không chỉ là “cầu nối” đưa hai nước quay lại cùng nhau vào năm 1995 mà ngày nay còn là yếu tố cơ bản giúp quan hệ của chúng ta tiến về phía trước.
Từ năm 1988, hài cốt của 727 người Mỹ mất tích trong chiến tranh đã được xác định nhờ sự hợp tác của các nhóm công tác của Mỹ và Việt Nam nhằm tìm kiếm và trao trả hài cốt các quân nhân đã hy sinh.
Và ngày nay, chúng tôi đang tích cực làm việc để hỗ trợ Việt Nam tìm kiếm các quân nhân của Việt Nam mất tích trong chiến tranh.
Trong thời gian đảm nhận vị trí đại sứ Mỹ tại Việt Nam, tôi đã có vinh hạnh tới thăm Nghĩa trang Trường Sơn và Nghĩa trang Biên Hoà để bày tỏ lòng tôn kính đối với tất cả các quân nhân Việt Nam đã hy sinh trong chiến tranh.
Đây là những trải nghiệm thực sự xúc động đối với cá nhân tôi, được thực hiện với tinh thần hòa giải và tôn trọng lẫn nhau.
Từ năm 1989, Mỹ đã cung cấp hơn 113 triệu USD để hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, giúp đỡ hàng triệu người Việt Nam khó khăn. Từ năm 1993, Mỹ đã đóng góp hơn 130 triệu USD để giúp Việt Nam rà phá các vật liệu chưa nổ (UXO).
Quan hệ đối tác của chúng tôi với chính phủ Việt Nam trong lĩnh vực này đã rất thành công và trong hai năm qua đã không còn thương vong liên quan đến vật liệu chưa nổ tại tỉnh Quảng Trị, nơi có chương trình do chính phủ Mỹ hỗ trợ.
Năm 2018, USAID đã kết thúc thành công dự án xử lý dioxin trị giá 110 triệu USD tại sân bay Đà Nẵng và năm ngoái, cùng với các đối tác Việt Nam, chúng tôi đã bắt đầu xử lý dioxin tại sân bay Biên Hoà, điểm nóng về dioxin lớn cuối cùng ở Việt Nam.
Quan hệ đối tác Mỹ - Việt Nam cũng đang ứng phó với những thách thức khẩn cấp hiện nay. Trong năm nay, Mỹ và Việt Nam đã vận dụng mối hợp tác lâu dài trong lĩnh vực y tế để tăng cường năng lực của Việt Nam trong ứng phó với đại dịch Covid-19.
Phái đoàn Ngoại giao Mỹ tại Việt Nam đã rất may mắn khi có ba đơn vị khác nhau, mỗi đơn vị có chuyên môn và năng lực riêng biệt, tham gia hỗ trợ cho cuộc chiến này.
Tạo cơ hội cho giới trẻ
Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) đã tận dụng lịch sử hoạt động lâu dài tại Việt Nam - từ năm 1989 - để nhanh chóng huy động các nguồn lực và đối tác phi chính phủ để hỗ trợ việc ứng phó khẩn cấp với đại dịch.
Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh Mỹ (CDC), với 22 năm làm việc cùng Bộ Y tế Việt Nam, đã trực tiếp cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các đối tác chính phủ trong bối cảnh khoa học công nghệ đang thay đổi nhanh chóng.
Văn phòng Tuỳ viên Y tế của Đại sứ quán, một đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ, đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trong Phái đoàn Ngoại giao Mỹ để tìm kiếm các cơ hội trao đổi thông tin và thiết bị liên quan đến trang phục bảo hộ cá nhân, máy thở, và các công nghệ khác.
Chúng ta đều có trách nhiệm tiếp tục xây dựng quan hệ dựa trên lòng tin và tình hữu nghị vốn là nền tảng cho quan hệ của chúng ta, từ hợp tác an ninh và y tế tới kinh tế và giao lưu nhân dân.
Trong quá trình hợp tác để hỗ trợ Việt Nam, ba cơ quan này đã đưa Việt Nam và Mỹ đến gần nhau hơn nữa.
Nhìn lại những gì Mỹ và Việt Nam đã cùng nhau đạt được trong 25 năm qua và thậm chí từ trước năm 1995, rõ ràng là năm nay hai nước chúng ta có rất nhiều điều để kỷ niệm.
Nhưng tôi cho rằng điều quan trọng là nhìn nhận rằng công việc của chúng ta chưa kết thúc. Có những lĩnh vực mà chúng tôi mong muốn Việt Nam sẽ làm nhiều hơn nữa, và những lĩnh vực hai phía còn những khác biệt.
Với tư cách là những người bạn, chúng tôi sẽ giải quyết những vấn đề này một cách cởi mở và thẳng thắn với các nhà lãnh đạo Việt Nam, và lắng nghe một cách cẩn thận những phản hồi của họ và hợp tác cùng nhau để tìm ra những giải pháp chung.
Khi tôi nghe mọi người nói rằng tất cả những gì chúng ta đã đạt được trong quan hệ Mỹ - Việt Nam là một điều kì diệu, tôi nhớ đến điều mà Đại sứ Peterson từng nói với tôi: dù những bước tiến chúng ta đã đạt được là rất đáng kể, nhưng đó không phải là một điều ngẫu nhiên.
Mọi thứ chúng ta đạt được đều được xây dựng dựa trên dũng khí, thiện chí và nỗ lực từ những người đi trước. Mối quan hệ Đối tác Toàn diện vững mạnh chúng ta có ngày hôm nay là kết quả của vô số hoạt động và nhiều thập kỉ cống hiến chân thành của những cá nhân ở cả hai nước.
Chúng ta đều có trách nhiệm tiếp tục xây dựng quan hệ dựa trên lòng tin và tình hữu nghị vốn là nền tảng cho quan hệ của chúng ta, từ hợp tác an ninh và y tế tới kinh tế và giao lưu nhân dân.
Tôi trông đợi được tiếp tục phát triển quan hệ song phương trong năm 2020 và trong 25 năm tiếp nữa trong quan hệ đối tác của chúng ta.