Nhà thơ Nguyên Sa có những câu thơ đã đi vào tim những chàng trai ở lứa tuổi yêu em mặt khờ và đầy mụn: “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”, hay “Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc. Áo nàng xanh anh mến lá sân trường” khi nhìn những cô nữ sinh Gia Long, Trưng Vương áo trắng tung bay như những con chim câu nhỏ giờ tan lớp.
Thuở ấy, dù đã có các nhà lý luận phê bình sinh sôi nẩy nở - tất nhiên có nhà văn, nhà thơ thì phải có nhà phê bình cho nó đủ tụ - nhưng chưa nhà phê bình nào đặt ra câu hỏi mang tính triết học: “Áo lụa Hà Đông, áo màu vàng là áo gì? Áo pull hay áo lá? Áo bà ba hay áo vải nylon? Áo gi-lê hay áo pành tà lồng? Áo cánh hay áo soutien?” […].
Nhà văn Lê Văn Nghĩa. Nguồn: NXB Trẻ. |
Hồi nhỏ, tôi được chiêm ngưỡng chiếc áo dài từ mẹ rồi sau đó là chị hàng xóm hàng ngày đi ngang trước cửa nhà tôi để lên quận làm việc. Tôi chẳng biết đó là áo dài cổ cao hay áo dài “bà Nhu” hở cổ, nhưng nhìn chiếc áo dài nào cũng đẹp đến nỗi tôi tự hỏi một câu ngu ngốc đến dễ thương là, “tại sao con trai không được mặc áo dài?”
Đứa bé gái 11 tuổi thi đậu vào trường công hay học trường tư đều phải mặc áo dài để đi học. Cũng như con trai phải quần xanh áo trắng. Chứ không phải như bây giờ mỗi trường đều có quyền quy định đồng phục của trường kiểu nào, nhà cung cấp nào.
Nữ sinh học bảy năm trung học, hàng ngày phải mặc áo dài đến trường nên áo dài trở nên quá đỗi thân thuộc. Các em tuổi ngọc trong bài nhạc của Phạm Duy phải mặc một chiếc áo dài mới ra dáng tiểu thơ, đi nhẹ, nói khẽ trong buổi chiều nhiều chàng theo.
Khi lớn lên cô gái vào đại học vẫn mặc áo dài dù lúc đó trường đại học không bắt buộc nhưng cô đã quen rồi. Khi đi vào công sở đa số các cô vẫn mặc áo dài vì không thể mặc gì khác để trông đứng đắn hơn, mặc dầu thời sau này Sài Gòn đã có đủ các loại thời trang như mini jupe, rop, maxi, quần pat áo pull...
Những loại thời trang vừa kể sau thường được diện trong những lúc đi chơi, nhưng khi làm việc hay đến những nơi công cộng thì áo dài là “binh chủng” chủ lực trong cuộc tấn công vào mắt đàn ông với đầy vẻ lịch sự, kín đáo rất nhu mì của con gái nhà gia giáo nhưng chỉ hở vừa phải, nhẹ nhàng.
Nếu có dịp nhìn lại các nữ minh tinh ngày ấy như Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, Kim Cương, Thanh Nga và một số nữ ca sĩ như Khánh Ly, Giao Linh, Phương Dung, Thanh Tuyền... thì thấy họ đều kín mít trong chiếc áo dài khi xuất hiện trước công chúng.
Nhưng trông lại họ rất duyên dáng, thanh lịch và nền nã mà cũng không kém phần hấp dẫn chết người. Cái bí mật của chiếc áo dài là ở chỗ “hở hang một cách kín đáo”. […].
Sau khi đọc bài Người thiết kế áo dài Lemur của bà Phạm Nguyên Thảo, tôi thấy phải nên công nhận sự ra đời của chiếc áo dài Lemur Cát Tường là nhờ công của tờ báo Phong Hóa - dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo sáng suốt của chủ bút Nhất Linh - Nguyễn Tường Tam. […]
Thấy rõ ràng là, trước tiên họa sĩ Cát Tường muốn dùng quần áo để phân định vẻ riêng của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ Pháp bảo hộ, với sự có mặt của nhiều thế giới phụ nữ từ đâu đến không phải người mình. Ấy, áo dài là áo của phụ nữ Việt Nam ta. Nhìn vô là biết vợ nhà chẳng phải vợ Tây nha. […]
Tại sao áo dài đẹp? Quá nhiều nhận định, giải thích theo đủ trường phái tả chân, ấn tượng trừu tượng, thuyết giảng của đủ thứ nhà về cái đẹp của chiếc áo dài.
Theo nhà văn Võ Phiến cho biết nhiếp ảnh gia Nguyễn Cao Đàm, người đã chụp nhiều thiếu nữ với áo dài trong nước và có dịp so sánh với trang phục của phụ nữ nhiều nước trên thế giới đã đút kết ngắn gọn: “Do nó (áo dài) cho thấy gió”.
Trong quyển tùy bút Quê hương (Nhà xuất bản Lửa thiêng), nhà văn Võ Phiến đã dành hẳn hai bài dài 20 trang để nói ta bà thế giới, dưới mọi khía cạnh - trừ chuyện đo ni, cắt may - về chiếc áo dài.
Ông cho rằng nếu người phụ nữ mặc áo dài khi đứng yên chưa chắc đã ăn đứt nổi những thiếu nữ Âu Á khác, nhưng khi “múa hát thì sẽ linh động hẳn lên vì những tà áo nhẹ ve vẩy phất phơ trong gió làm cho một thân hình nặng nề nhất, cục mịch nhất cũng hóa ra thanh thoát.”
Nhà văn Võ Phiến đi sâu phân tích y phục của người phụ nữ dưới cặp mắt của một nhà văn hóa học: “Trang phục là văn hóa, văn hóa là một cố gắng cải biến thiên nhiên”.
Ông cho rằng chiếc áo dài Việt Nam là sự dung hòa giữa tự nhiên và văn hóa. Phần từ bụng đi ngược trở lên “dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên” là đề cao phần tự nhiên của thân người, còn phần dưới rất thanh, thoát hẳn thân người, đó là văn hóa.
“Nhìn vào một người phụ nữ mặc áo dài, sau khi bị khích động vì cái phần trên, mắt lần dò nhìn xuống, thì ở phần dưới lại chỉ thấy... gió! Vâng, ở đây mắt chỉ thấy có gió (như người nhiếp ảnh gia tinh mắt đã thấy), có cái thướt tha, cái bay bướm mà thôi” (Chiếc áo dài, sđd, trang 18).
Áo dài - một loại trang phục của phụ nữ - đã được thi vị hóa trong thơ nhạc và văn chương của các bậc văn nhân thi sĩ lừng danh. Nhớ Phạm Duy, nhớ Nguyên Sa... và những nhà văn nhà thơ đôi lúc chỉ vì một điệu nhạc nhí nhảnh, lời thơ trữ tình có liên quan đến chiếc áo dài.
Chiếc áo dài rất thầm kín của riêng họ lại là chiếc áo dài trong trái tim của từng người nghe, người đọc. Đem phân tích sâu xa như nhà văn Võ Phiến lại thuộc vào một “cảnh giới” khác.
Nhưng dù ở tâm trạng hay cảnh giới nào “khi chiếc áo dài đã tự liên hệ được như thế với thi ca ngôn ngữ, với tiểu thuyết, nếp sống... thì chắc chắn nó cũng phản ảnh được phần nào một nét tâm hồn dân tộc” (Võ Phiến).
Tuy nhiên, cũng không nên lạm dụng áo dài biến tấu hai ba tầng với quần lửng ống loe bán đại trà ngoài chợ, áo dài mặc với quần jean hay áo dài mặc với quần short, kết ren tua tủa, hoa văn lổn nhổn thì tội nghiệp cho chiếc áo dài lắm lắm.