Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

6 tổng thống phạm sai lầm tai hại trong lịch sử Mỹ

Uy tín của Warren Harding giảm mạnh sau khi ông đưa nhiều bạn cũ vào chính phủ, còn Franklin Piercer nghiện rượu nặng, trầm cảm và là người châm ngòi cho cuộc nội chiến Mỹ.

Millard Fillmore là Tổng thống thứ 13 của Hoa Kỳ. Ảnh: Totallyhistory

Millard Fillmore (1850-1853) trở thành tổng thống Mỹ sau khi đương kim tổng thống Zachary Taylor qua đời do viêm dạ dày cấp tính. Sai lầm nghiêm trọng nhất của Fillmore là từ bỏ chính sách của Lincoln và tán thành Đạo luật Nô lệ bỏ trốn (một đạo luật về việc giao những nô lệ bỏ trốn đang ở miền bắc cho những người chủ nô ở miền nam). Hành vi này là một phần của "Thỏa hiệp 1850", thứ khiến Đảng Whig sụp đổ hoàn toàn.

Đảng Whig, là một đảng chính trị của Mỹ ra đời trong thời kỳ dân chủ hóa của tổng thống Andrew Jackson, hoạt động từ năm 1833 đến năm 1856 với mục đích đối trọng với Andrew Jackson và Đảng Dân chủ, chủ trương ủng hộ việc đưa quyền hạn của quốc hội lên trên tổng thống, hiện đại hóa, và giữ nền kinh tế bảo thủ. Tên Whig được lấy từ thời cách mạng Mỹ năm 1776. Hồi đó nó tượng trưng cho phong trào yêu nước chống chủ nghĩa chuyên quyền.

Warren G. Harding là Tổng thống thứ 29 của Mỹ. Ảnh: Wikipedia

Bên cạnh những thành tựu đạt được, Warren Harding (1921-1923) đã mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng như việc bổ nhiệm những người bạn cũ của ông, những người mà báo chí thời đó gọi là "băng đảng Ohio", vào danh sách nội các. Albert B. Fall được bổ nhiệm vào vị trí Bộ trưởng Nội vụ, Edwin C. Denby và Harry Daugherty lần lượt nắm Bộ trưởng Hải quân và Bộ trưởng Tư pháp. 

Trong mắt các nhà hoạt động thời đó, Harding đã chọn một kẻ thích cướp đất đai và tài sản cho vào túi riêng để làm Bộ trưởng Nội vụ, một chính trị gia mờ ám và đầy amam ưu để làm người đứng đầu cơ quan hành pháp Hoa Kỳ, và một kẻ cũng chẳng mấy tốt đẹp hơn để làm chỉ huy lực lượng hải quân Mỹ. Người ta chế nhạo rằng, trong số 27 triệu đàn ông Mỹ lúc bấy giờ, vị Tổng thống thứ 29 này đã chọn phải những kẻ tồi tệ nhất.

Không lâu sau, sự lựa chọn sai lầm của Harding đã dẫn tới hậu quả nghiêm trọng. Đó là bê bối chính trị chấn động lịch sử nước Mỹ, vụ buôn dầu lửa Teapot Dome. Albert Fall đã thuyết phục Harding giao quyền giám sát trữ lượng dầu mỏ từ Bộ Hải quân về Bộ Nội vụ. Edwin Denby ủng hộ đề xuất này. Ý đồ của Fall là cho các công ty dầu thuê đất xung quanh khu khai thác dầu Elk Hills ở bang California và Teapot Dome ở bang Wyoming rồi thu tiền đút túi riêng. Sự việc bại lộ, Fall phải từ chức và bị kết tội tham nhũng, trở thành thành viên nội các đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ phải ngồi tù. Uy tín của Harding giảm mạnh.

William Henry Harrison là Tổng thống thứ 9 của Mỹ. Ảnh: Wikipedia

Trước khi trở thành Tổng thống Mỹ thứ 9, William Harrison (1841) là vị tướng nổi tiếng trong trận chiến Tippecanoe năm 1811. 

Hôm tổng thống Harrison phát biểu nhậm chức, thời tiết rất lạnh. Bài diễn văn dài dòng của ông, dài 8.578 từ và diễn ra trong 100 phút, vô tình trở thành nguyên nhân dẫn tới cái chết của vị tổng thống này. Ông qua đời một tháng sau khi nhậm chức. Cái chết của ông khiến Mỹ rơi vào một cuộc khủng hoảng hiến pháp.

Franklin D. Pierce là Tổng thống thứ 14 của Mỹ. Ảnh: Wikipedia

Franklin Piercer (1853-1857) là một trong những người châm ngòi cho cuộc nội chiến ở Mỹ. Sau khi nhậm chức, tổng thống thứ 14 bắt đầu đẩy mạnh kiểm soát tình trạng nô lệ. Ông là người ủng hộ Thỏa hiệp Missouri 1820, Đạo luật Nô lệ bỏ trốn 1850 và Đạo luật Kansas - Nebraska 1854. Nội dung những đạo luật đó liên quan về chế độ nô lệ ở nước Mỹ. 

Trong cuộc sống, ông là người nghiện rượu nặng và vật lộn với chứng trầm cảm. Ông qua đời vì căn bệnh xơ gan.

Andrew Johnson là tổng thống thứ 17 của Mỹ. Ảnh: Wikipedia

Andrew Johnson (1865-1869) trở thành tổng thống thứ 17 của Mỹ sau khi đương kim Tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát. Ngay khi nắm quyền, Johnson đã đứng về phía người da trắng tại các bang miền nam và ngăn cản việc mở rộng quyền con người ở các bang thuộc khu vực này. Ông đã cắt đứt quan hệ với Đảng Dân chủ từng ủng hộ ông và tỏ ra khoan dung với những phần tử ly khai, đẩy nước Mỹ tới nguy cơ tất cả những thành quả sau cuộc nội chiến. Mặc dù bãi bỏ chế độ nô lệ, ông không hề chú ý đến quyền bình đẳng và quyền công dân của người da màu.

Johnson trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên bị luận tội sau khi cách chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Edwin Stanton và đưa người khác lên thay khi các nghị sĩ chưa đồng ý.

Theo đánh giá của các nhà phân tích, trên cương vị Tổng thống, những quyết định của Andrew Johnson về việc tăng quyền cho người da trắng ở các bang miền nam là một sai lầm lớn, dẫn đến tình trạng bất mãn ở những người da đen, khiến "nước Mỹ ngày nay vẫn đang phải tiếp tục trả giá cho sai lầm của Andrew Johnson".

James Buchanan là Tổng thống thứ 15 của Mỹ. Ảnh: Billpomerenk

James Buchanan (1857-1861) là một tổng thống nhu nhược. Trong thời gian nắm quyền, vị tổng thống thứ 15 không hành động kiên quyết và mạnh mẽ để chống lại âm mưu của các bang miền nam đòi ly khai, dẫn đến cuộc nội chiến đẫm máu nhất nước Mỹ, kéo dài từ năm 1861 tới năm 1865. Đồng thời ông cũng không chứng tỏ được tài lãnh đạo khi để nước Mỹ chìm trong suy thoái của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 1857.

Cụ thể, Buchanan đã ủng hộ quyết định của Tòa án Tối cao, từ chối quyền công dân cho tầng lớp nô lệ và ủng hộ chế độ chiếm nô. Hành động đó khiến các nghị sĩ đảng Dân chủ vô cùng phẫn nộ và dẫn đến sự chia rẽ đảng phái cũng như nội chiến.

Kim Ngân

Bạn có thể quan tâm