Mới đây, cuốn sách Nam Phương - Hoàng hậu cuối cùng của tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang đã gây chú ý với độc giả khi cung cấp nhiều thông tin, sử liệu mới mẻ và thú vị về nhân vật đặc biệt này.
Vừa qua, cuốn sách thứ hai của cùng tác giả mang tên Bảo Đại - Hoàng đế cuối cùng cũng đã ra mắt. Cuốn sách không chỉ tập hợp khối lượng tư liệu đáng kể về vị vua cuối cùng của Việt Nam mà giống như sự quan chiếu thêm về Nam Phương hoàng hậu qua vua Bảo Đại và ngược lại.
Được sự đồng ý của Sài Gòn Books, Zing.vn trích đăng một phần nội dung sách.
Khi Bảo Đại quyết định thoái vị, ông trở thành vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, chế độ phong kiến chấm dứt tại Việt Nam. |
Chủ tịch chính phủ mới là Nguyễn Ái Quốc, thì ta đáng thoái vị
Vào những ngày trung tuần tháng Tám năm 1945, người dân cả nước từ quê đến tỉnh đều nô nức đón chờ ngày Chính phủ Cách mạng lâm thời của nước Việt Nam độc lập ra mắt quốc dân. Từ đây, chính phủ quân chủ sẽ cáo chung, Vua Bảo Đại phải thoái vị.
Vào những ngày này, Vua Bảo Đại tỏ ra buồn chán vì chưa tin vào lời hứa của cách mạng sẽ để yên cho cựu hoàng và gia quyến. Việc cả gia đình Nga hoàng bị sát hại sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã làm cho Bảo Đại lo sợ. Sáng 22/8, ông Phạm Khắc Hòe, Ngự tiền Văn phòng Đổng lý của Bảo Đại mang bức điện của Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc Bộ từ Hà Nội đánh vào và ở dưới ký tên Nguyễn Xiển, Nguyễn Văn Huyên, Ngụy Như Kon Tum và Hồ Hữu Tường. Nguyên văn bức điện:
“Một chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời đã thành lập, Chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu đức vua thoái vị ngay để củng cố và thống nhất nền độc lập nước nhà”.
Khi cầm bức điện trong tay đọc xong, vẻ mặt Bảo Đại tỏ ra buồn lo, vì câu sấm “Nam Đàn sinh Thánh” đã không đúng và câu sấm “vạn đại dung thân” cũng sai nốt. Bảo Đại nghĩ là sai vì từ trước đến giờ Bảo Đại cũng như những người dân ở Huế chưa hề nghe nhắc đến cụ Hồ Chí Minh. Và ngay cả đến Phạm Khắc Hòe cũng còn bán tín bán nghi, không biết cụ Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc có phải cùng là một người không. Nhưng để trình lại nhà vua nên Phạm Khắc Hòe đã vội vã chạy đi tìm ông Tôn Quang Phiệt để hỏi cho rõ.
Không gặp được ông Phiệt, Phạm Khắc Hòe tới ngay nhà ông Đào Duy Anh để hỏi xem, may ra ông Đào Duy Anh là nhà nghiên cứu có thể biết rõ Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc là ai. Ông Đào Duy Anh tìm nhiều tài liệu lịch sử thì thấy nói ông Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng bôn ba hải ngoại nhiều nơi, hoạt động chính trị khi ẩn, khi hiện nên đã phải có nhiều tên khác nhau, còn tên Hồ Chí Minh thì chưa có sách báo nào ghi cả và cũng không thấy ai nhắc đến.
Ông Hòe thấy ông Anh trả lời còn mơ hồ nên chạy tới ông Vũ Văn Hiền để hỏi lại xem sao. Ông Hiền là một luật sư cũng để ý đến việc chính trị và biết rõ những hoạt động cách mạng của Việt Minh nên trả lời: “Đúng rồi! Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc”. Ông Hòe nghe vậy mừng quá, chạy vội về báo tin cho Vua Bảo Đại.
Khi Bảo Đại nghe ông Hòe trình lại cụ Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc thì Bảo Đại giơ hai tay lên và buột miệng nói câu tiếng Pháp “Ca vaut bien le coup alors” (Như thế thì thật đáng thoái vị). Bảo Đại vốn từ bé học bên Pháp nên hay nói tiếng Pháp trong gia đình khi có những chuyện vui buồn, riêng tư. Nay được tin vui nên Bảo Đại cũng buột miệng dùng tiếng Pháp. Bảo Đại chỉ dùng tiếng Việt khi làm việc hoặc tiếp xúc với dân chúng.
Sau khi nghe Phạm Khắc Hòe báo cáo rõ như vậy, Bảo Đại bảo ông Hòe thảo điện văn trả lời cho Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc Bộ kẻo trễ. Toàn văn điện như sau:
“Khâm phụng Hoàng đế, văn phòng tôi trả lời bức điện số 6 DT của Ủy ban rằng: Ngài vui lòng thoái vị ngay và sắp đặt sẵn sàng, nhưng vì có trách nhiệm trước lịch sử và toàn thể quốc dân và muốn Chính phủ mới chính thức ra mắt quốc dân một cách long trọng, Ngài mong ông Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Cách mạng lâm thời gấp về Thuận Hóa để Ngài giao chính quyền và Ngài muốn cho ông biết ngày làm lễ ấy. Đồng thời, Hoàng đế lại sắc văn phòng để sao chuyển bức điện văn này cho nhà đương chức Nhật Bản và Ủy ban Nhân dân Cách mạng tại Thuận Hóa biết”.
Tới chiều 25/8, ông Phạm Khắc Hòe lại nhận được bức điện của Chính phủ lâm thời tại Hà Nội gửi vào viết rằng:
“Hoan nghênh tinh thần dân chủ và đoàn kết, thống nhất của Hoàng đế. Yêu cầu Hoàng đế hạ dụ chính thức thoái vị để yên lòng dân. Đại biểu Chính phủ lâm thời sắp tới Thuận Hóa”.
Thế là, ngay chiều hôm đó, ông Phạm Khắc Hòe cho niêm yết tại Phủ Văn Lâu bản chiếu thoái vị và bản tuyên chiếu với Hoàng tộc. Cũng đồng thời, bản chiếu thoái vị của Hoàng đế được gửi đến các ông khâm sai Bắc Bộ, Nam Bộ và các tỉnh trưởng Trung Bộ để biết.
Kể từ lúc nhận được bức điện từ Hà Nội gửi vào, Bảo Đại đã được trấn an nên dành thời giờ để ngồi tâm sự với ông Phạm Khắc Hòe. Bảo Đại nói là hiện giờ ông có một đồn điền riêng mới khẩn hoang trồng chè ở Blao trên Quốc lộ 20 từ Đà Lạt xuống Sài Gòn và cho biết ý định sau khi thoái vị sẽ về Blao sinh sống bằng cái đồn điền chè, ở đó Bảo Đại còn có hai chiếc xe cam-nhông có thể đóng lại để dùng làm xe đò chở thuê và ông Hòe cũng ngỏ ý thuê lại một chiếc để sinh sống. Còn thức ăn thì Bảo Đại nói ở gần rừng, thỉnh thoảng vác súng đi săn cũng đủ thịt để ăn không hết, nếu bắn được cọp thì dư tiền để sống phong lưu.
Nhưng mọi người trong Đại nội vào những ngày cuối tháng Tám thì thật buồn, người nào cũng lo nghĩ là khi Hoàng đế mất ngôi, chế độ mới lên thay Hoàng tộc sẽ sống như thế nào… Một bầu không khí hoang mang bao trùm cả Hoàng tộc.
Đến 14h chiều ngày 26/8/1945, Bảo Đại làm lễ báo cáo việc thoái vị với tổ tiên tại Thái Miếu, cũng là nơi thờ của Gia Long và các vua kế tiếp. Sự kiện này diễn ra trong vòng giới hạn các quan thân tín, còn những hoàng thân quốc thích không ai tới dự vì tâm trạng của họ lúc đó quả thật buồn lo.
Sau khi làm lễ xong, Bảo Đại về điện Kiến Trung để từ biệt bá quan. Bảo Đại và Nam Phương đứng nghiêm để các quan chắp tay, cúi đầu vái mỗi người ba vái. Bảo Đại tỏ ra thản nhiên, nhưng bà Nam Phương thì rơi nước mắt.
[...]
Cảnh Bảo Đại thoái vị, trao ấn kiếm được tái hiện tại bảo tàng Lịch sử - Cách mạng Thừa Thiên - Huế. |
Lá cờ vàng của nhà vua sẽ hạ xuống, thay vào cờ đỏ sao vàng
Tới ngày 29/8, ngay từ sáng sớm, dân chúng Huế đã lũ lượt kéo nhau tới sân vận động, tề tựu đông đủ để dự lễ mít tinh chào mừng phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời ở Hà Nội vào Huế để nhận tiếp nhận ấn kiếm của Bảo Đại.
Đúng hẹn, vào lúc 4 giờ chiều, phái đoàn Chính phủ lâm thời tới điện Kiến Trung và được ông Phạm Khắc Hòe đón ở cửa điện, hướng lên bậc tam cấp để vào phòng khách nơi Bảo Đại sẽ tiếp phái đoàn. Tại phòng khách lớn này, Bảo Đại khăn áo chỉnh tề và vui vẻ từ phòng khách bước ra cửa đón phái đoàn vào.
Sau gần một tiếng đồng hồ, Vua Bảo Đại và phái đoàn nói chuyện vui vẻ và đi đến ấn định lễ thoái vị sẽ cử hành đúng 4 giờ chiều ngày hôm sau, ngày 30/8/1945 tại Ngọ Môn. Lá cờ vàng của nhà vua sẽ được treo lên lại, khi làm lễ xong sẽ hạ cờ vàng thay vào lá cờ đỏ sao vàng của Cách mạng.
Gần 4 giờ, có hàng chục nghìn người đã tụ tập trước Ngọ Môn, dưới kỳ đài và đang nô nức đón chờ giờ phút lịch sử sẽ diễn ra, đánh dấu sự kiện chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến và từ nay sẽ có một chính quyền khác do nhân dân làm chủ.
Để biết thêm về lễ thoái vị của vua Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều Nguyễn - chúng ta hãy đọc lại một đoạn trích trong hồi ký của nhà sử học Trần Huy Liệu, trưởng phái đoàn của Chính phủ Cách mạng lâm thời năm 1945, người đã vào kinh đô Huế để dự lễ thoái vị và nhận ấn kiếm của Bảo Đại:
“Ngày 30/8/1945, theo giờ đã định, năm vạn nhân dân nội thành Huế đã tập trung trước cửa Ngọ Môn, cờ đỏ sao vàng rực rỡ bên bờ sông Hương và trên mặt sông, điểm vào những chiếc thuyền bềnh bồng giữa dòng nước xanh biếc. Xe của phái đoàn từ từ tiến vào cửa chính Ngọ Môn giữa tiếng hoan hô vang dậy của dân chúng. Ngồi trong chiếc xe mui trần, tôi nhớ lại những trang lịch sử: cửa chính Ngọ Môn này trước kia chỉ mở tiếp đón ‘thiên sứ’ của triều đình Trung Quốc đến phong tước. Hồi thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam, khi đến Thuận Hóa, tên thống tướng Đờ Cuốc-xi (De Courcy) đã gây chuyện với Tôn Thất Thuyết về việc đòi mở cửa Ngọ Môn để tiếp nó. Ngày nay, xe của phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngang nhiên tiến vào cửa chính Ngọ Môn của Hoàng thành Huế, tự bản thân của sự việc thì không có gì là lạ, nhưng chính là kết quả thắng lợi của bao nhiêu năm đấu tranh chống thực dân, phong kiến dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bảo Đại chít khăn vàng, mặc Hoàng bào đứng chực sẵn ở cửa. Phái đoàn bước lên Ngọ Môn, dân chúng hoan hô sôi nổi. Đến lượt Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Đọc xong, Bảo Đại hai tay dâng chiếc kiếm dài nạm ngọc và sau đó là chiếc ấn hình vuông. Tôi thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp nhận hai vật tượng trưng cho chế độ phong kiến.
Trong giây phút thiêng liêng, nếu sự việc chỉ có thế thì cũng thật đơn giản. Nhưng trong đó còn có chuyện khá buồn cười. Chiếc kiếm dài nạm ngọc và ấn vàng này theo lời người ta nói đều từ Gia Long để lại. Cùng với ấn kiếm còn có một chiếc túi gấm đựng bộ quân cờ bằng ngọc và những thứ lặt vặt quý giá khác. Khi tiếp nhận thanh kiếm của Bảo Đại dâng lên thì không có gì đáng kể. Nhưng khi tiếp nhận chiếc ấn vàng, tôi đã phải chịu đựng sức nặng bất ngờ của chiếc ấn. Chiếc ấn nặng tới 7 ký-lô-gam vàng! Thú thật với các bạn, khi giơ hai tay đỡ chiếc ấn, tôi có ngờ đâu nó nặng đến thế nên không chuẩn bị tư thế từ trước. Tuy vậy, khi chiếc ấn nặng trĩu đã nằm trong tay tôi, tôi phải cố gắng vận dụng hết sức bình sinh để chống đỡ, không để nó trĩu xuống, nhất là đừng để người tôi khỏi nghiêng ngả, vì tư thế của tôi lúc ấy có phải thuộc riêng của tôi đâu, mà là tư thế của một vị đại diện Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đương làm một việc rất quan trọng trong giờ phút lịch sử. Cũng may là tôi đã làm tròn trách nhiệm ‘nặng nề’ ấy. Chẳng những thế, sau khi đã lấy ấn kiếm của Bảo Đại, tôi phải giơ lên cho hàng vạn dân chúng đương ngóng trông ở trước cửa Ngọ Môn xem. Tôi càng giơ lên và đưa đi đưa lại thì dân chúng càng hoan hô. Nhiều người sung sướng quá nhảy chồm lên, tung mũ, tung nón. Cố nhiên là không ai biết đến sự nỗ lực của tôi đến tột bực trong khi hai cánh tay như muốn rời ra.
Sau khi nhận ấn kiếm rồi, tôi thay mặt Chính phủ đọc một bài diễn văn tuyên bố xóa bỏ chính thể quân chủ từ ngày xưa để lại và chấm dứt ngôi vua cuối cùng của triều Nguyễn. Quay lại phía Vĩnh Thụy (Bảo Đại) tôi gắn cho hắn một huy hiệu của người công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
[…]
Sau cuộc lễ, một nhà báo đến phỏng vấn tôi về cảm tưởng khi nhận ấn kiếm của Bảo Đại, tôi nói: ‘Trong cuộc đời tham gia cách mạng, chống thực dân phong kiến, tôi đã hai lần được sống trong những giờ phút sung sướng: lần thứ nhất là lúc thảo Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám và hôm nay được nhận ấn kiếm của tên vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam’.
Ngày 2 tháng Chín năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Tôi cũng báo cáo về việc phái đoàn vào Huế nhận việc thoái vị của Bảo Đại và đệ ấn kiếm lên Hồ Chủ tịch”.