Truyện đại thể rằng: Có một tên cố nông, nhà nghèo nhưng không biết lo làm ăn lại hay ngỗ nghịch với mẹ. Ngày kia, hắn được bạn bè rủ đi nhậu.
Hắn giao đứa con chừng 3 – 4 tuổi cho mẹ hắn trông coi. Bà mẹ già lẩm cẩm đã để đứa con của hắn té sông mà chết. Khi hay tin, hắn trở về hung hăng cầm phảng rượt chém mẹ, bà già hoảng hốt bỏ chạy.
Chẳng may, chân vấp phải bờ đất té nhào. Hắn giơ phảng lên khỏi đầu thì cũng là lúc Trời hóa phép “trồng” đứng hắn như vậy. Hắn đau đớn rên la mấy ngày rồi chết. Dân làng thương tình nên dùng xi măng trét lại thành cái mả đứng. Ở vùng Tiền Giang có cái mả đứng như thế.
Song, trong dân gian còn một cách lý giải về chuyện mả đứng, trời trồng gắn với chủ nhân của của nó là tên Việt gian khét tiếng Trần Bá Lộc. Dân gian tin rằng do tên này quá ác, nên trước khi qua đời hắn sợ bị “đào mồ cuốc mả” nên trối lại phải chôn nhiều ngôi mộ giả để… không ai biết.
Còn việc mả chôn đứng là bởi Trần Bá Lộc cao ngạo đòi chôn đứng để “chống mắt nhìn đời”. Sự thật thì không biết sao, có điều bia miệng về sự gian ác của hắn để lại đến nay vẫn chưa hề mai một.
Trong số những "đại Việt gian" theo thực dân Pháp giết hại nhân dân, đàn áp các phong trào khởi nghĩa ở Nam Bộ, thì Trần Bá Lộc là tay sai tàn ác nhất. Trần Bá Lộc là con Trần Bá Phước, người Quảng Bình, đỗ tú tài vào Nam dạy học tại Cái Nhum Rau Má (Vĩnh Long), sau đó đổi lên cù lao Giêng (Châu Đốc).
Khi thực dân Pháp xâm chiếm, Lộc đem gia đình lên Mỹ Tho, làm nghề bán cá cho quân Pháp, rồi nhờ một ông cố đạo gọi là cha Marc giới thiệu để xin vào làm lính mã tà.
Trần Bá Lộc. |
Lộc lập nhiều thành tích nhờ do thám, chỉ điểm cho Pháp bắt các thân hào nhân sĩ ủng hộ nghĩa quân, nên được thăng chức làm cai, rồi lên đội rất nhanh. Mới 26 tuổi, Lộc được bổ làm tri huyện, tức chủ quận Cái Bè năm 1865, cũng là người Việt Nam đầu tiên được Pháp bổ làm chủ quận Nam Kỳ.
Hai năm sau, Lộc được thăng Đốc Phủ Sứ (ngạch công chức cao nhất dành cho người Việt Nam dưới thời pháp thuộc. Với ngạch này có thể làm tới chức Phó chủ tỉnh).
Trên một tấm bia gắn trên mộ Lộc, chính quyền thuộc địa đã ghi nhận “công” của Lộc đã tham gia trong hầu hết những cuộc đàn áp nghĩa quân ở Nam Kỳ.
Lộc chém giết các nghĩa quân dã man hơn cả quân Pháp rất nhiều, nên dân chúng oán hận. Để dẹp tan các cuộc khởi nghĩa và dụ hàng, Lộc bắt cha mẹ, vợ con các lãnh tụ phải chỉ chỗ họ ẩn nấp, kêu họ ra đầu thú. Nếu không đạt mục đích, Lộc sẵn sàng hạ sát họ.
Chính từ sự tàn ác của Lộc, năm 1886, Lộc được Pháp điều ra Bình Định để đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng. Nhà văn Sơn Nam phân tích: "Khi Mai Xuân Thưởng khởi nghĩa, Trần Bá Lộc ở xứ Nam Kỳ lại hăng máu, xin đem quân ra đánh dẹp.
Việc này xúc phạm đến tự ái của quân Pháp, các công sứ Pháp và Nguyễn Thân, tay Việt gian đắc lực ở miền Trung. Vì cho rằng tại sao dẹp một cuộc khởi loạn ở miền núi xứ An Nam, lại cần đến chi viện?.
Nhưng vài tên Pháp đầu sỏ đã ủng hộ việc ấy. Thế là Trần Bá Lộc huênh hoang, cho khắc con ấn với chữ Tổng đốc Thuận Khánh để sử dụng, đồng thời lại chiêu mộ hơn ngàn lính mã tà, đưa vào trại Ô Ma ở Sài Gòn để tập dượt”.
Với thủ đoạn từng áp dụng ở đảo Phú Quốc khi vây bắt nghĩa quân Nguyễn Trung Trực năm 1868, đàn áp cuộc khởi nghĩa Thủ Khoa Huân năm 1875 ở Mỹ Tho, Lộc bắt bớ rồi tra tấn thân nhân của nghĩa quân và của chính Mai Xuân Thưởng...
Trần Bá Lộc cho bắt người thân nghĩa quân rồi trói bỏ vào cối đá cho lính dùng chày giã để lung lạc tinh thần của các thủ lĩnh kháng Pháp, …
Nhiều quan chức người Pháp không ưa Lộc vì sự tàn ác đến man rợ, nhưng cũng thừa nhận rằng: "Lộc là người dùng phương tiện cẩu thả, nhưng đạt mục đích chắc chắn".
Mộ đứng là của Trần Bá Lộc, ngôi mộ thấp hơn là của Trần Bá Thọ (con trai Lộc). |
Tham Biện Mỹ Tho phê bình Lộc như sau: "Người ta có thể phàn nàn lão già này về hành động dã man lúc trước, nhưng tôi nghĩ trong hàng ngũ viên chức bản xứ hiện nay, khó tìm được người biết kính bề trên và tận tụy với quyền lợi của nước Pháp như hắn".
Toàn quyền Paul Doumer vào Nam lần nào cũng xuống nhà thăm Lộc. Để tưởng thưởng “công lao” của Lộc, năm 1899, Doumer cho Lộc làm thành viên của phái đoàn, tháp tùng Doumer viếng thăm Bangkok.
Ân huệ đó làm cho Lộc rất hãnh diện. Ngoài ra Doumer còn cất nhắc Lộc, trước khi chết được vào Hội đồng tối cao Đông Dương, có nhiệm vụ lo về an ninh lãnh thổ.
Lộc chết năm 1899, đám ma của Lộc quàn đủ 100 ngày, mỗi ngày đều làm heo, bò đãi khách khứa rần rần. Lễ động quan có binh lính bồng súng chào và đưa tới huyệt.
Sĩ phu Cái Bè có câu đối mai mỉa Trần Bá Lộc như sau: “Tả quân quốc ư lưỡng kỳ, Nam tảo Bắc trừ, thứ nhật niễu hùng nan dụng võ/ Bão lê dân ư Ngũ Hiệp, tư qui sinh ký, kiêm triêu chấp phất hận vô văn”.
Tạm dịch nghĩa: “Giúp việc cho thực dân Pháp và triều đình Huế; đánh phá trong Nam ngoài Bắc, ngày ấy niễu hùng này hết đường dùng võ/ Cai trị dân Ngũ Hiệp, sống ở chết về, muốn nhắc đến công nghiệp mà không có cái văn nào tả xiết”.