Trong tác phẩm Kinh thi Việt Nam, lần đầu tiên ra mắt bạn đọc năm 1940 (NXB Tri thức xuất bản năm 2018), tác giả, nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu Trương Tửu (1913-1999) đã chia sẻ những chi tiết thú vị, bất ngờ về bài vè Chi chi trành trành (ngày nay quen gọi là Chi chi chành chành) trong trò chơi dân gian của trẻ nhỏ mà ông biết được từ một ông già vô danh. Và chính từ chia sẻ này đã gợi cho Trương Tửu một lối nghiên cứu thi ca bình dân, để đi tìm gốc rễ tinh thần dân tộc trong tác phẩm Kinh thi Việt Nam.
Câu sấm truyền của cổ nhân?
Bài vè Chi chi trành trành do ông già vô danh chia sẻ với Trương Tửu được ông đề cập trong phần Trước khi vào đề của tác phẩm Kinh thi Việt Nam. Ông cho biết khoảng những năm 1927-1928 (trong tác phẩm viết khoảng 12-13 năm trước), trong lúc đi dạo, ông được gặp một ông già thuộc về lớp người sinh khoảng vua Tự Đức băng hà (1883), đang bực dọc vì phải chứng kiến những cảnh tượng giao thời của nước nhà. Sự tình cờ này đã cho ông biết câu chuyện về bài vè mà những đứa trẻ đang chơi trò mô-tê hát vẳng lại từ phía nhà bát giác vườn hoa Paul Bert (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ):
Chi chi trành trành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết trương
Ba vương lập đế
Ú tế đi tìm
Hú tim bắt ập!
Trò chơi dân gian “Chi chi trành trành” của con trẻ. |
Theo lời kể của Trương Tửu, ông già vô danh kia không hài lòng và nói với ông: “Chúng hát sai cả. Người ta dạy chúng sai cả”. “Câu hát không phải thế. Nguyên nó là câu sấm của cổ nhân truyền lại mãi đến gần đây mới nghiệm”. Rồi ông già vô danh giải thích:
Câu đầu phải là: Chu tri rành rành, nghĩa là bá cáo cho mọi người đều biết.
Câu thứ 2: Cái đanh thổi lửa, nói về quân đội Pháp bắn súng vào Đà Nẵng.
Câu thứ 3: Con ngựa đứt cương, chỉ vào sự băng hà của vua Tự Đức (1883) và sự rối loạn của triều đình lúc bấy giờ.
Câu thứ 4: Ba vương lập đế, chỉ việc ba vua liên tiếp được lập. Hồi đó bọn Tường Thuyết chuyên quyền giết hại nhiều người trung trực. Chúng dám làm trái cả lời di chúc của Tiên vương, bỏ Dục Đức vào ngục tối, lập Hiệp Hòa làm vua. Sau chúng lại giết Hiệp Hòa đem Kiến Phúc thay vào. Rồi chúng giết cả Kiến Phúc để tôn Hàm Nghi lên ngôi báu.
Câu thứ 5. Cấp kế đi tìm: Đến triều vua Hàm Nghi thì Thuyết nổi lên bài Pháp và bị thất bại, phải đem vua đi trốn. Quân đội Pháp một mặt phải lo dẹp loạn, một mặt tìm kế bắt Hàm Nghi cho yên lòng dân
Câu thứ 6: “Hú tim òa ập!”: Sau, có tên Ngọc phản bội mà vua bị bắt ở rừng Tuyên Hóa lúc ngài đang ngủ.
Ông già vô danh tỏ vẻ tiếc nuối, một câu sấm hay thế mà rồi truyền khẩu sai be bét.
Dân gian chép sử theo tâm lý
Sau khi chia tay ông già vô danh đó, Trương Tửu ngẫm nghĩ về câu hát Chi chi trành trành mà ông vừa được biết là một lời sấm ký chính trị của người xưa truyền lại. Trương Tửu tự hỏi những bài hát khác như: Nu na nu nống, Rung răng rung rẻ, Thả cá ba ba… ý nghĩa như thế nào, cũng na ná giống bài hát kia chăng? Bất thình lình, ông bắt đầu liên tưởng đến những lời tựa và chú thích trong Kinh thi của Nho gia.
Chân dung nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu Trương Tửu. Ảnh: Nguyễn Đình Toán. |
Trương Tửu cho biết, ông già vô danh đó đã gợi cho ông một lối nghiên cứu thi ca bình dân, chú trọng về giá trị sử ký. Nhưng ông lại không tin bài hát “chu tri” kia là câu sấm của người ẩn sĩ nào để lại mà nó chỉ là một cách chép sử của dân gian. "Nó không đáng được coi như là một tài liệu lịch sử, chân xác. Giá trị đặc biệt của nó là tâm lý xã hội. Bằng cách ghi chép sự việc xảy ra ở chung quanh, dân gian đã diễn đạt rất trung thành thái độ của mình đối với đương thời. Vì vậy, ta chỉ nên tìm đến tâm lý của người tác thành ra chúng. Đây là nguyên tắc căn bản cho nghiên cứu ca dao", Trương Tửu viết.
Ông cho rằng, dưới ánh sáng của nguyên tắc này, bài “chu tri rành rành” lộ ra tất cả tâm lý của người An Nam vào quãng thế kỷ 19. Đọc hết câu chu tri rành rành, cảm tưởng đầu tiên là đang chứng kiến một cái gì đó bị thua, một cái gì giam hãm, một cái gì bị mất đi. Đứng xem lũ trẻ thực hiện trò chơi ấy, cảm tưởng càng rõ rệt hơn. Cái bị thua là đứa trẻ chậm hơn các bạn, không rút tay kịp. Cái giam hãm trong ngón tay trỏ của đứa trẻ ấy (nghĩa bóng là quyền sai khiến: Ngón trỏ là biểu hiện của quyền sai khiến); cái bị mất đi là cái tự do của đứa trẻ chậm chạp kia (nó phải đuổi các đứa khác để đòi lại cái tự do đã mất).
Trương Tửu cũng cho biết tâm lý đẻ ra câu hát kia là tâm lý của dân gian chán nản chủ quyền đại diện cho họ đã vì yếu, vì chậm mà bị thua, bị mất. Cho nên, câu hát đã tận cùng bằng sự tận cùng (òa ập!). Cái tâm lý đẻ ra mô tê mà chu tri chỉ là đoạn nhập cục là tâm lý dân gian tin tưởng cuộc khôi phục tương lai của cái tự do đã mất đi bằng sự nỗ lực tiến hóa của chính mình.
Từ những nhận định trên, Trương Tửu cho rằng nghiên cứu thơ ca bình dân sẽ tìm được trong đó những tính tình, xu hướng của dân gian qua các thế kỷ. Hơn nữa đó còn là một tài liệu khoa học xã hội rất quý… Có thể căn cứ vào đó để đi tìm cái tâm lý chung đã mai một trong quá khứ.
Bìa sách Kinh Thi Việt Nam do Hàn Thuyên xuất bản năm 1945 và NXB Tri thức ấn năm 2018. |
Đọc hết những câu ca dao truyền tụng lại sẽ thấy nổi lên tinh thần độc lập của dân tộc và những nỗ lực liên tiếp của tổ tiên ta. Ngoài giá trị đó ra, ca dao còn có giá trị nghệ thuật không thua kém bất cứ giá trị nền thơ bình dân của bất cứ quốc gia nào trên thế giới…
Đó cũng là lý do để ông viết lên Kinh Thi Việt Nam, tác phẩm nghiên cứu có một vị trí quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp bề thế của ông trước Cách mạng tháng Tám.