Khi doanh nhân Hàn Quốc Kim Yong Tae làm việc với người Triều Tiên tại khu công nghiệp Kaesong trước khi nơi này đóng cửa vào năm 2016, một trong những thách thức lớn nhất là giao tiếp, dù hai miền bán đảo vốn chia sẻ một ngôn ngữ.
“Có nhiều khoảnh khắc khó xử bởi tôi gặp nhiều cụm từ chưa bao giờ nghe thấy trong thời gian sinh sống và làm việc ở Hàn Quốc”, ông nói.
Ngược lại, người Triều Tiên cũng đáp trả doanh nhân người Hàn bằng những cái nhìn trống rỗng khi ông sử dụng từ “container”, từ mượn tiếng Anh mà người Hàn Quốc vẫn sử dụng trong giao tiếp thường ngày.
Trong khi người Hàn có xu hướng sử dụng ngày càng nhiều từ mượn thì một số từ ngữ của người Triều lại mang tính nhạy cảm chính trị. Rào cản về giao tiếp đang khiến hợp tác kinh tế và trao đổi văn hóa giữa hai miền bán đảo Triều Tiên trở nên phức tạp dù quan hệ hai nước đang có nhiều dấu hiệu tích cực.
Lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un gặp Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae In hồi tháng 4. Ảnh: Reuters. |
Triều Tiên và Hàn Quốc sử dụng cùng một ngôn ngữ theo bảng chữ cái Hangeul. Tuy nhiên, sau hàng thập niên chia cắt, theo các chuyên gia, số từ vựng mà cả hai bên cùng hiểu được chỉ chiếm khoảng 70%.
Để vượt qua khó khăn và thúc đẩy tình đoàn kết thống nhất, chính phủ Hàn Quốc có thể sẽ tái khởi động dự án học thuật nhằm phát triển một từ điển chung với Triều Tiên.
Những từ không tồn tại ở Triều Tiên
Chính quyền tại hai miền bán đảo Triều Tiên đều nói về mục tiêu thống nhất. Tuy nhiên, sau những thập niên phát triển theo hai hướng khác nhau hoàn toàn, nhiều người lo ngại giấc mơ đó quá xa xôi để có thể trở thành hiện thực.
Theo Reuters, Bình Nhưỡng kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế đất nước. Điều này đồng nghĩa với việc nhiều lao động Triều Tiên không biết những thuật ngữ phổ biến trong nền thương mại và kinh tế tư bản Hàn Quốc.
“Vô gia cư, tiền thuê nhà theo năm, theo tháng. Người Triều Tiên không biết đến những cụm này bởi mọi thứ đều thuộc sở hữu nhà nước”, Kim Wan Seo, nhà từ điển học Hàn Quốc trong ban soạn thảo từ điển chung, cho biết. “Về các thuật ngữ, hai nước đang có sự khác biệt rất lớn”.
Ông Kim Jong Un dự buổi biểu diễn kỷ niệm 70 năm thành lập Liên đoàn Thiếu nhi tại Bình Nhưỡng năm 2016. Ảnh: KCNA. |
Kim Young Hee, người Triều Tiên đào tẩu tới Hàn Quốc năm 2002, cho biết cô đã phải học một số thuật ngữ tài chính không tồn tại ở Triều Tiên, bao gồm những từ liên quan đến cổ phiếu và cổ phần.
Tình trạng cô lập về chính trị và văn hóa của Triều Tiên đồng nghĩa với việc người dân nước này ít có từ mượn tiếng Anh hơn nước láng giềng. Sự khác biệt ngôn ngữ trở nên rõ ràng khi những vận động viên Triều Tiên và Hàn Quốc cùng tham gia thi đấu chung trong môn khúc côn cầu trên băng tại Thế vận hội.
“Hai từ duy nhất mà họ cùng hiểu là ‘giày trượt’ và ‘đĩa tròn'”, Kim Jung Min, người phát ngôn Hiệp hội Khúc Côn cầu Hàn Quốc, nói. “Chúng tôi phải điều phối trước khi các buổi luyện tập bắt đầu. Chúng tôi còn in danh sách từ vựng khác nhau giữa hai nước và dán lên tủ đồ của các vận động viên”.
Đồng nhất ngôn ngữ, hướng tới thống nhất
Sau hội nghị thượng đỉnh giữa lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un và Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae In hồi tháng 4, hai quốc gia đã bắt đầu một số dự án hợp tác.
Bên cạnh dự án thiết kế từ điển, bắt đầu từ năm 2006 nhưng tạm dừng vào năm 2015 do căng thẳng chính trị, các chương trình khác cũng đang được thảo luận. Trong số này có thể kể đến dự án khảo cổ khai quật cung điện ở Triều Tiên, chương trình biểu diễn nghệ thuật của đoàn Triều Tiên ở Hàn Quốc, các dự án kiểm soát sâu bệnh và hàng loạt sự kiện thể thao.
Đội khúc côn cầu của Triều Tiên (áo đỏ) và Hàn Quốc (áo trắng) trong trận thi đấu tại Gangneung năm 2017. Ảnh: Getty. |
Trong động thái thể hiện thiện chí, Triều Tiên đã chỉnh giờ nhanh 30 phút để thống nhất với Hàn Quốc. Bên cạnh đó, theo Bộ Thống nhất Hàn Quốc, việc giữ gìn một ngôn ngữ đồng nhất là điều cần thiết để chuẩn bị cho sự thống nhất cuối cùng.
Tuy nhiên, những cuộc thảo luận về từ điển trước đây không tránh khỏi động chạm chính trị khi nhiều ngôn từ bị người Triều Tiên cho là nhạy cảm.
Các tác giả soạn thảo đã phải tránh một từ dùng để chỉ “ông ấy” vì từ này thường được người Triều Tiên dùng cho lãnh đạo. Ngoài ra, nhà từ điển học Kim Wan Seo cũng cho biết các ví dụ trong từ điển không được phép nhắc đến Mỹ.
Một ví dụ khác gây tranh luận giữa hai bên là từ “dong-mu”. Từ này có nghĩa là bạn thời thơ ấu tại Hàn Quốc nhưng ở Triều Tiên, nó lại có nghĩa là những người đồng chí cùng trải qua cách mạng.
“Chúng tôi phải thương lượng để tạo ra nét nghĩa công bằng cuối cùng là ‘những người cùng nỗ lực vì mục tiêu chung’”, Kim nói.
Một số cuộc tranh luận khác ít nghiêm trọng hơn. Chẳng hạn, tại Hàn Quốc, động từ “sal-ji-da” được sử dụng để nói rằng “bạn đã tăng cân đấy” và trong một số ngữ cảnh, từ này mang nghĩa xúc phạm.
Tuy nhiên, đối với người Triều Tiên, việc sử dụng từ "sal-ji-da" đưa sự xúc phạm lên một tầm cao mới.
"Họ chỉ dùng từ này cho súc vật”, nhà từ điển học nói.