Ngành mây tre đang đứng trước cơ hội chiếm lĩnh tới 10% nhu cầu thị trường thế giới và thu về khoảng 1 tỷ USD từ xuất khẩu. Ảnh: VGP/ Đỗ Hương |
Theo thống kê từ Bộ Công Thương, sản phẩm mây tre Việt Nam đã được xuất khẩu (XK) tới trên 120 quốc gia. Trong đó, đứng đầu là thị trường Mỹ chiếm đến trên 19% thị phần, Nhật Bản chiếm gần 17% thị phần. Tuy nhiên, kim ngạch XK mây tre Việt Nam hiện chỉ chiếm chưa đến 3% thị trường thế giới.
Chưa có thương hiệu chung
Ông Lưu Duy Dần, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho hay, cả nước có 713 làng nghề mây tre đan, chiếm 24% trong tổng số làng nghề thủ công mỹ nghệ, thu hút khoảng 350 nghìn lao động.
Từ năm 2009 đến nay, các làng nghề mây tre nổi tiếng như Phú Nghĩa, nón Chuông, làng Vát, Chàng Sơn, Phú Túc, nón Huế... gặp rất nhiều khó khăn do thị trường bấp bênh, nguồn nguyện liệu không ổn định, sản xuất cầm chừng.
Trong khi người tiêu dùng ở các nước phát triển ưa chuộng những sản phẩm đơn giản, có tính hình khối thì sản phẩm mây tre Việt Nam thường rườm rà, nhiều chi tiết và lắm góc cạnh, uốn lượn,… nên khó có thị trường bền vững. Chúng ta cũng chưa xây dựng được thương hiệu chung cho các sản phẩm tre Việt Nam.
Trên 80% các cơ sở sản xuất trong ngành mây tre đan không đủ vốn để đổi mới kỹ thuật, mở rộng quy mô sản xuất, hầu hết đều sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thấp, thiếu đa dạng về mẫu mã, hạn chế sức cạnh tranh cả trên thị trưởng trong nước lẫn XK.
Theo ông Nguyễn Mạnh Dũng, Trưởng Phòng Chế biến, Cục Chế biến thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ NNPTNT), từ mây và tre có thể chế biến được hàng trăm loại sản phẩm khác nhau phục vụ cho tiêu dùng nội địa và XK.
Cụ thể, những vật liệu này có thể sản xuất thành 2 nhóm hàng lớn: các sản phẩm truyền thống như măng tre làm thực phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ, mành, chiếu, tăm, giấy…; các sản phẩm mới như tre ép làm ván sàn và đồ nội thất, tre ép phục vụ xây dựng, làm than hoạt tính, làm sợi,… Trong đó, các sản phẩm chế biến công nghiệp từ tre như tre ép khối và đặc biệt là tấm lót đường từ tre mặc dù mới được nghiên cứu và đưa vào sản xuất nhưng đã có một vị thế đầy tiềm năng ở cả thị trường trong và ngoài nước, có giá trị gia tăng rất cao.
Phát triển nguyên liệu và thương hiệu
Ông Nguyễn Trọng Thừa, Cục trưởng Cục Chế biến thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối, cho biết hiện cả nước có khoảng 1,4 triệu ha tre, trong đó chỉ khoảng 6% diện tích rừng trồng, phần còn lại là rừng tự nhiên. Những tỉnh có trữ lượng tre lớn, tập trung là Thanh Hóa, Lâm Đồng, Kon Tum, Nghệ An, Tuyên Quang, Đắk Nông, Bình Phước, Lai Châu, Sơn La và Yên Bái. Hàng năm, Việt Nam tiêu thụ khoảng 400-500 triệu cây tre nứa cho các mục đích khác nhau.
Điều tra thực địa tại 28 tỉnh trên cả nước, ước tính nguồn tài nguyên song mây tại Việt Nam có tổng diện tích 381.936 ha. Trong đó vùng Bắc Trung Bộ có mây nhiều nhất (201.076ha), sau đó là vùng Nam Trung Bộ với diện tích song mây 180.270 ha. Sản lượng song mây có thể được thu hoạch được trong cả nước ước khoảng 36.510 tấn/năm, trong khi nhu cầu tiêu thụ thực tế khoảng 70.000 tấn/năm, có nghĩa mỗi năm chúng ta đang phải nhập khẩu trên 33.000 tấn mây.
Tre nứa, song mây là những loài cây lâm sản ngoài gỗ có khả năng gây trồng thành vùng nguyên liệu chuyên canh hoặc bảo tồn khai thác bền vững. So với các loài cây gỗ, tre nứa có ưu điểm nổi trội là tốc độ sinh trưởng rất nhanh, trồng sau 3-4 năm có thể khai thác, năng suất cao 4-12 tấn/ha/năm. Luân kỳ khai thác của rừng tre, nứa rất ngắn, từ 2-3 năm.
Với đòi hỏi từ thị trường, từ nay đến năm 2020 và 2030, cơ cấu sản phẩm của ngành chế biến tre nên là 30% cho các sản phẩm truyền thống và 70% sản phẩm thuộc nhóm các sản phẩm mới.
“Các sản phẩm tre ép khối thay thế gỗ trong sản xuất đồ nội thất ngày càng được ưa chuộng, vì có độ bền đẹp không thua gỗ, nhưng giá bán lại rẻ hơn rất nhiều. Song trên thị trường toàn cầu, các sản phẩm đồ nội thất chế biến từ tre chỉ chiếm 3% trong tổng số 100 tỷ USD của thị trường đồ nội thất. Việt Nam cần hướng vào dòng sản phẩm mới này. Nếu có chiến lược và cơ cấu sản phẩm hợp lý, chúng ta có khả năng chiếm được 8-10% thị trường thế giới, thì ngành chế biến mây tre Việt Nam sẽ vươn tới 1 tỷ USD trong tương lai”, ông Dũng bày tỏ.
Như vậy, song song với việc phát triển, khoảng trống trong nhu cầu các sản phẩm mây tre đan trên thế giới vẫn còn khá lớn. Việc tăng cường năng lực doanh nghiệp cho ngành hàng này, tiến tới liên kết tạo thương hiệu mây tre đan Việt Nam để tiến thẳng vào khoảng trống về cầu các sản phẩm mây tre của thế giới.