Ông Nam nhấn mạnh Trung Quốc chỉ muốn giải quyết tranh chấp song phương, không chịu đa phương. Nhưng thỏa thuận song phương với Trung Quốc rất nguy hiểm. Họ có thể dùng nó để loại trừ các nghĩa vụ quốc tế của mình. Bởi nguyên tắc tối cao của công pháp quốc tế là tôn trọng chủ quyền quốc gia, tôn trọng sự thỏa thuận giữa các nước, nên những thỏa thuận song phương như vậy có khả năng và hiệu lực loại trừ nghĩa vụ quốc tế mà một trong hai nước đã ký kết.
Tức là với một thỏa thuận song phương, Trung Quốc có thể loại trừ được những điều mà họ muốn loại trừ, nhưng không thể hoặc chưa kịp loại trừ khi ký kết các thỏa thuận quốc tế. Ngoài ra, họ còn có thể ép chúng ta thực hiện những điều cam kết song phương với họ. Nhưng chính họ lại có thể không thực hiện, bởi trong quan hệ giữa ta và Trung Quốc có những loại thỏa thuận song phương không có hiệu lực quốc tế, và vì vậy họ không sợ bị phán xử. Điều này cực kỳ nguy hiểm. Chính vì vậy, việc cần làm ngay là phải đưa Trung Quốc vào cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương trong công pháp quốc tế.
Tàu kiểm ngư bị hư hỏng nặng. |
4 cách khởi kiện Trung Quốc
- Trung Quốc luôn khăng khăng không chấp nhận thẩm quyền tài phán của tòa án quốc tế. Trường hợp kiện của Philippines cho thấy Trung Quốc không đồng ý ra tòa mà còn gia tăng áp lực song phương.
- Điều 287 khoản 1 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) quy định khi tranh chấp, các nước thành viên có thể chọn bốn khả năng: thứ nhất là tòa án quốc tế ở Hà Lan, thứ hai là Tòa án quốc tế về luật biển ở Đức, thứ ba là tòa trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS, thứ tư là tòa trọng tài theo phụ lục 8 cho những tranh chấp đặc biệt. Mới nghe thì rất dễ, nhưng không đơn giản.
Ví dụ tòa án quốc tế ở Hà Lan có quy định tòa chỉ có thẩm quyền xét xử nếu được cả hai bên cùng công nhận thẩm quyền. Về nguyên tắc, các nước ký UNCLOS đều chịu phán quyết của tòa án biển quốc tế, nhưng mỗi nước khi ký đều có quyền tuyên bố bảo lưu, không chấp nhận thẩm quyền phán xử của tòa án quốc tế trong lĩnh vực nào. Trung Quốc đã có tuyên bố hợp lệ loại trừ quyền tài phán của tòa án biển quốc tế đối với toàn bộ tranh chấp về chủ quyền liên quan đến đảo.
- Ngày 25/8/2006, Trung Quốc gửi Liên Hiệp Quốc các tuyên bố bảo lưu theo điều 298 của UNCLOS, sau đó đẩy căng thẳng biển Đông lên cấp độ ngày càng nóng hơn. Theo ông, chúng ta nên chọn giải pháp nào để đấu tranh hiệu quả trên mặt trận pháp lý với Trung Quốc?
GS-TS Nguyễn Vân Nam. |
- Tôi thấy có gì đó rất nguy hiểm. Tại sao Trung Quốc lại đưa giàn khoan vào đúng lúc mọi người bất ngờ nhất? Theo tôi, nó là phép thử đầu tiên xem phản ứng của Việt Nam và công luận quốc tế để họ thu thập và đánh giá đầy đủ thông tin cần thiết cho những bước nghiêm trọng hơn. Cho nên mục tiêu của chúng ta không thể chỉ là đuổi giàn khoan xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam.
Đây là cơ hội để ta đạt được các mục tiêu lớn hơn, buộc Trung Quốc vào một cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương. Đó là mục tiêu quan trọng đầu tiên. Mục tiêu thứ hai là bẻ gãy sự tự tin ngạo mạn kiểu Trung Quốc, khiến họ phải thay đổi chiến lược ở biển Đông. Mục tiêu thứ ba là phòng vệ chủ động: khi Trung Quốc bị buộc phải tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp của tòa án quốc tế, họ sẽ không thể nào dùng vũ lực được nữa.
Theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc và UNCLOS, trong khi tòa án giải quyết các tranh chấp như thế, các bên có nghĩa vụ không được làm tình hình nghiêm trọng hơn. Nghĩa là với đơn kiện như vậy, Trung Quốc bị buộc không được dùng vũ lực hoặc các mưu mô khác có khả năng làm hiện trạng tồi tệ thêm.
Có thể khởi kiện Trung Quốc sử dụng vũ lực
- Giới luật gia quốc tế cho rằng Trung Quốc tính già hóa non trên biển Đông. Họ cũng đang lộ ra nhiều điểm sai trái và kẽ hở?
- Trung Quốc đã rào trước đón sau rất kỹ. Kế sách của họ đưa ra tuyên bố bảo lưu theo điều 298 của UNCLOS loại trừ cả bốn cách quốc tế giải quyết tranh chấp theo luật biển, đặc biệt là tòa án quốc tế giải quyết tranh chấp liên quan đến chủ quyền đảo... Chúng ta phải nghĩ ra toàn bộ hướng khởi kiện, nghiên cứu sâu các hướng đó để đánh giá hướng nào có khả năng nhất.
Vì vậy, trước tiên đơn kiện của chúng ta phải không lọt vào vùng loại trừ của Trung Quốc. Thứ hai, đơn kiện này phải được một cơ quan tài phán quốc tế chấp nhận. Đây là cái khó, nhưng có giải pháp. Chúng ta kiện vào cái mà Trung Quốc buộc phải thực thi, một nghĩa vụ căn bản của thành viên Liên Hiệp Quốc mà Trung Quốc không thể loại trừ. Đó chính là khoản 3 điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và điều 279 UNCLOS đều quy định các nước thành viên có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình, không được sử dụng vũ lực, và nghĩa vụ này không bị loại trừ bởi bất kỳ tuyên bố nào.
Thế nào là sử dụng vũ lực thì có thể còn tranh cãi. Và bởi vì còn tranh cãi nên cần phải có cơ quan tài phán độc lập. Đó chính là thuận lợi cho mình. Các hành vi sử dụng vũ lực này là dùng tàu hải giám, hải cảnh, tuần ngư... thuộc sở hữu nhà nước Trung Quốc phá hỏng tàu Việt Nam. Nghiêm trọng hơn là tàu của nhà nước Trung Quốc đã có gây thương tích cho người Việt Nam.
Như vậy, chúng ta có thể khởi kiện Trung Quốc sử dụng vũ lực vi phạm khoản 3 điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và điều 279 UNCLOS ra Tòa án quốc tế về luật biển. Nội dung kiện này không nằm trong vùng loại trừ của Trung Quốc. Họ có thể không đồng ý. Nhưng theo quy định của UNCLOS, nếu một bên không đồng ý thì phải chuyển qua tòa trọng tài theo phụ lục 7. Tòa trọng tài này sẽ không thể tuyên là việc sử dụng vũ lực không thuộc thẩm quyền, bởi đó là nghĩa vụ căn bản mà Trung Quốc không thể loại trừ.
- Ngoài hướng kiện này, chúng ta còn có thể kiện theo nội dung nào khác?
- Ngoài kiện kết tội, chúng ta có thể khởi kiện yêu cầu xác định hành vi. Đó là yêu cầu Tòa án quốc tế về luật biển khẳng định hành vi tàu Trung Quốc đâm vào làm hư hỏng tàu Việt Nam, gây thương tích người Việt Nam là hành vi sử dụng vũ lực. Trong đó, đặc biệt là yếu tố gây tổn thương đến con người. Đây là trường hợp Tòa án quốc tế về luật biển có thẩm quyền lý giải và áp dụng UNCLOS.
Ở nước ngoài, kiểu kiện yêu cầu tòa án khẳng định một sự việc này rất phổ biến (kiện không có bị đơn). Để giải quyết, tòa sẽ phải mời Trung Quốc nhưng không phải trong tư cách bị đơn. Và như thế, họ vẫn bị buộc phải tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương. Đây là giải pháp khởi kiện tốt vì khả năng thắng lợi rất cao. Sau khi tòa ra phán quyết hành vi vũ lực của Trung Quốc, chúng ta có thể sẽ tiếp tục kiện kết tội họ.
- Liệu có khả năng dù tòa phán quyết thế nào, Trung Quốc vẫn cậy thế nước lớn, không chấp nhận và cứ làm theo ý chí của mình?
- Đó là thực tế. Nhưng với việc khởi kiện, chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ, buộc họ phải bị động thay đổi chiến lược chứ không thể hoàn toàn hành động ngang ngược, trâng tráo theo ý mình. Trung Quốc khó có thể còn lu loa nói càn như “rất ngạc nhiên, sửng sốt”. Họ sẽ chùn tay trong hành động làm tình hình tồi tệ thêm.
Ngư dân có thể kiện
- Ngoài hướng kiện của Nhà nước Việt Nam đối với nhà nước Trung Quốc, ông có cho rằng chính ngư dân chúng ta cũng có thể tìm công lý từ luật pháp quốc tế, mà cụ thể là UNCLOS?
- UNCLOS bảo vệ rất chặt chẽ quyền đánh cá. Khoản 2 điều 20 quy chế Tòa án quốc tế về luật biển ghi rõ đây là tòa án quốc tế duy nhất cho phép các chủ thể không phải là nhà nước có thể khởi kiện đối với các tranh chấp liên quan đến cách hiểu và áp dụng UNCLOS. Một thuận lợi lớn mà chúng ta chưa vận dụng. Chính các thành viên Tòa án quốc tế về luật biển cũng khuyến khích hướng kiện này từ người dân.
- Với sự “phòng thủ” kín kẽ luật pháp của Trung Quốc, ngư dân Việt Nam có thể kiện theo hướng nào để có thể thực thi mà không bị rơi vào vùng loại trừ trong tuyên bố bảo lưu của Trung Quốc?
- Trung Quốc đang cản trở tự do đánh bắt, gây thiệt hại đến tài sản và tính mạng ngư dân. Nếu dựa vào UNCLOS thì Trung Quốc có rất nhiều vi phạm. Nhưng điều chủ yếu ở đây phải xem xét kỹ là với những hành vi sử dụng vũ lực đó, ngư dân Việt Nam đã có thể khởi kiện được Trung Quốc chưa? Cá nhân ngư dân hoặc qua các hiệp hội, tổ chức nghề cá đều có thể khởi kiện được. Tuy nhiên, dù là cá nhân hay tổ chức nghề cá thì khi ra Tòa án quốc tế về luật biển họ cũng như là một nhà nước khởi kiện. Họ cũng gặp nhiều khó khăn lẫn thuận lợi như nhà nước tiến hành kiện. Nhưng nếu biết lập luận, có thể họ sẽ không rơi vào những trường hợp tuyên bố loại trừ của Trung Quốc.
- Ngư dân cần được hỗ trợ, chuẩn bị những gì để tự tin bước vào mặt trận tìm kiếm công lý quốc tế?
- Theo tôi, khó khăn lớn nhất ở đây với ngư dân là quá trình thu thập chứng cứ. Ngư dân đi đánh cá bị tàu Trung Quốc đâm hư hỏng, phun vòi rồng nước, bắn cháy, cướp tài sản và hải sản... thì phải thu thập được chứng cứ. Đặc biệt, những chứng cứ đó phải được lấy theo chuẩn mực quốc tế như chụp ảnh, quay phim...
Nhà nước, các hội đoàn và nhân dân cả nước có thể hỗ trợ ngư dân bằng kinh phí, trang bị máy móc đủ điều kiện để thu thập chứng cứ, bản thân ngư dân rất khó tự thân xoay xở. Chính Trung Quốc cũng hiểu rõ điều này. Ngoài các tàu nhà nước, nhiều lần họ sử dụng tàu ngụy trang tàu cá để che đậy hành động tấn công ngư dân Việt Nam.
Hỗ trợ ngư dân kiện
Bản thân ngư dân hay tổ chức nghề cá rất khó làm hồ sơ kiện ra Tòa án quốc tế về luật biển. Họ cần được giúp đỡ, cần có người hướng dẫn cụ thể trình tự lấy chứng cứ như thế nào, cách lấy, và mỗi loại chứng cứ thì điểm gì là điểm không thể không có. Có nhiều loại chứng cứ như quay phim, chụp ảnh, nhân chứng.
Ví dụ, tàu ngư dân bị tàu Trung Quốc đâm va thì người trên tàu rất khó ghi hình để thấy rõ toàn cảnh tàu bị hại, tàu tấn công, số tàu, kinh độ vĩ độ, ngày giờ, hành vi... Có hai loại nhân chứng và chứng cứ, nhưng chứng cứ khách quan tại hiện trường thì tốt hơn nhiều.
Vì vậy, nên cần có hai, ba tàu phối hợp để tàu bị tấn công, tàu khác có thể ghi lại chứng cứ rõ ràng. Sau khi ngư dân thu nhập xong chứng cứ nên gửi đến luật sư để đánh giá. Nếu đủ sẽ phát đơn khởi kiện. Và họ có thể ủy quyền cho luật sư nhân danh họ khởi kiện đến Tòa án quốc tế về luật biển.