Trong hàng chục quốc gia có mối quan hệ thương mại với Việt Nam, Thái Lan luôn nằm trong top 10 thị trường lớn nhất. Hàng hóa nước này chủ yếu tấn công phân khúc khách hàng có thu nhập trung bình khá, khi giá cả “nhỉnh” hơn hàng trong nước và cao hơn nhiều so với hàng Trung Quốc. Theo khảo sát của phóng viên, trên một số tuyến phố tại Hà Nội như Pháo Đài Láng, Cầu Giấy, Giảng Võ…, cửa hàng bán hàng Thái Lan đang xuất hiện ngày càng nhiều, với đủ mặt hàng từ quần áo, giày dép đến khăn mặt, chậu, khay nhựa, dầu gội, mỹ phẩm…
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, nhập khẩu của Việt Nam từ Thái Lan trong năm 2014 đạt 7,118 tỷ USD, tăng 12% so với năm 2013, trong khi đó Việt Nam xuất sang thị trường này đạt 3,48 tỷ USD. Cán cân thương mại giữa Việt Nam và Thái Lan trong những năm qua luôn ở trạng thái không cân bằng với mức thâm hụt nghiêng về phía Việt Nam.
Xuất hiện nhiều cửa hàng chuyên bán hàng Thái Lan. |
Nếu trong năm 2013, mức thâm hụt trong quan hệ thương mại Việt - Thái đạt mức 3,45 tỷ USD thì con số này của năm 2014 “nhỉnh” hơn một chút đạt 3,64 tỷ USD. Xét về nhóm hàng, Việt Nam nhập khẩu 42 nhóm mặt hàng từ Thái Lan, trong đó, những mặt hàng như bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc, chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh, hàng rau quả, hàng điện gia dụng và linh kiện… chiếm tỷ lệ đáng kể.
Cụ thể, đồ điện gia dụng và linh kiện Thái Lan chiếm hơn một nửa tổng kim ngạch nhập khẩu vào Việt Nam, gấp đôi con số từ Trung Quốc và cao hơn 4 lần hàng hóa có xuất xứ từ Malaysia. Các sản phẩm từ chất dẻo nhập khẩu năm 2014 cũng đạt gần 190 triệu USD, đứng sau Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc nhưng đã liên tục tăng trong những năm gần đây. Với rau quả, dù là một quốc gia nhiệt đới, nhưng Việt Nam cũng nhập tới hơn 143 triệu USD rau củ quả từ Thái Lan, chỉ đứng sau Trung Quốc.
Câu hỏi đặt ra là, vì sao giá hàng hóa “Made in Thailand” dù đắt hơn 10-15% giá hàng trong nước mà người tiêu dùng vẫn lựa chọn? Câu trả lời rất ngắn gọn là “chất lượng”. Trên thực tế, mẫu mã, chất lượng hàng Thái “ăn đứt” hàng trong nước nên đã chiếm được lòng tin của người tiêu dùng. Tuy nhiên, để có được thành quả này, một chiến dịch thâm nhập thị trường đã được người Thái chuẩn bị khá bài bản.
Chiến lược thâm nhập thị trường Việt Nam của Thái Lan được ông Phạm Tất Thắng, Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công Thương) đánh giá trên nhiều phương diện. Trước hết, ngay từ khi bắt đầu hình thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), người Thái đã đầu tư nhiều vào lĩnh vực sản xuất, hàng chế biến nông sản thực phẩm, đồ uống, kể cả một số lĩnh vực bao bì, logistic.
Sản phẩm Thái Lan xâm nhập vào Việt Nam có một số lượng lớn là hàng tiêu dùng bình dân. |
Hàng năm, tại các thành phố lớn của Việt Nam, hội chợ hàng Thái được tổ chức cẩn thận thu hút nhiều người đến thăm và mua tại hội chợ. Chưa kể đến, người Thái khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để có hàng trăm, hàng nghìn của hàng tiện lợi nằm sâu trong khu dân cư thành phố thị trấn lớn (Yên Bái, Lào Cai…).
“Việc phát triển cửa hàng tiện ích nơi này không chỉ đơn thuần cung cấp hàng hóa mà còn tạo cơ sở móc nối thị hiếu người tiêu dùng với nhà cung cấp sản phẩm. Bởi lẽ, nhân lực của những cửa hàng này là người Việt Nam, họ biết được 'hàng xóm' (tức người tiêu dùng nơi đây - PV) cần gì để cung cấp thông tin cho nhà sản xuất Thái Lan”, ông Thắng nói.
Thêm vào đó, ngay ở các chợ phát luồng truyền thống của Việt Nam đã bắt đầu có hàng Thái như chợ Đồng Xuân (Hà Nội), chợ Hàn (Đà Nẵng)… Đây là điều mà doanh nghiệp trong nước cũng như các nước khác khi vào Việt Nam chưa làm được.
Từ làm ăn nhỏ, người Thái đã phát triển làm ăn lớn bằng cách mở rộng thị trường thông qua việc mua lại hệ thống siêu thị có tiếng tại Việt Nam. Mới đây Tập đoàn Berli Jucker -BJC (Thái Lan) đã mua lại hệ thống siêu thị Metro Việt Nam. Hay như Central Group hiện cũng có 2 trung tâm mua sắm tại Hà Nội và TP.HCM và mới hoàn tất mua 49% cổ phần tại hệ thống siêu thị điện máy Nguyễn Kim...
Như vậy, với tiềm lực có sẵn cộng với việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) trong năm 2015 (sẽ cắt giảm hàng loạt dòng thuế), hàng hóa nước ngoài, trong đó có hàng Thái Lan “chảy” vào Việt Nam là điều tất yếu. Nếu nhìn vào cái lợi trước mắt, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, người dân Việt Nam được sử dụng hàng hóa chất lượng cao của Thái Lan mà giá cả không cao, phù hợp với sức mua của người Việt Nam. “Chính điều này sẽ đẩy hàng không rõ nguồn gốc, hàng chất lượng kém, ảnh hưởng sức khỏe ra khỏi thị trường Việt Nam đồng thời giảm buôn lậu”, một vị chuyên gia nhận định.
Tuy nhiên, về lâu dài, khi sức cạnh tranh của hàng nội còn yếu, nguy cơ hàng Thái Lan lấn át hàng nội được chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh nhìn nhận là có thật. “Phía Việt Nam cần có đối sách để trụ vững trên chính sân nhà”, ông Doanh nói. Vị này kiến nghị, doanh nghiệp, Hiệp hội, Bộ Công Thương cần có nghiên cứu cụ thể từng mặt hàng để có những so sánh, đối sách ứng phó.
Đồng quan điểm trên, ông Thắng bổ sung, khi các hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, cơ quan quản lý phải dựng hàng rào kỹ thuật để bảo vệ doanh nghiệp Việt. Phía doanh nghiệp phải vươn lên cạnh tranh về giá cả, chất lượng, tiếp thị… giống như Thái Lan đã làm.
“Không thể đặt ra việc ngăn chặn hàng ngoại để ưu tiên sử dụng hàng nội. Người Việt Nam chỉ ưu tiên sử dụng hàng Việt khi chất lượng hàng Việt tương đương hàng ngoại. Nếu dựa vào lòng yêu nước thì người tiêu dùng chỉ mua một lần, còn khi chất lượng không tốt thì lần thứ 2 người tiêu dùng chắc chắn sẽ không mua hàng Việt nữa”, ông Thắng nhận định.