Hiệp hội Kinh doanh Vàng Việt Nam (VGTA) vừa có văn bản gửi Bộ Tài chính để góp ý về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/2020 liên quan đến biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan.
Trong đó, VGTA chủ yếu hướng tới việc đề xuất Bộ Tài chính không điều chỉnh mức thuế xuất khẩu đối với mặt hàng vàng có hàm lượng dưới 95% từ 0% lên 2% như dự thảo nghị định.
Giảm cạnh tranh của doanh nghiệp vàng
Theo dự thảo của Bộ Tài chính, mức thuế suất xuất khẩu đối với các mặt hàng vàng trang sức, mỹ nghệ thuộc các nhóm 7113.19.10.10; 7113.19.90.10 sẽ chịu thuế suất xuất khẩu là 2% (hiện tại là 0%).
VGTA cho rằng nếu nâng mức thuế lên 2% như dự thảo chắc chắn các doanh nghiệp kinh doanh vàng trong nước sẽ không thể xuất khẩu các mặt hàng này. Nguyên nhân đến từ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vàng trong nước trên thị trường quốc tế hiện rất yếu.
Cụ thể, do không được nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ trong bối cảnh giá vàng nguyên liệu trong nước luôn cao hơn quốc tế 6-8 triệu đồng/lượng và đầu tư thiết bị công nghệ (trừ một vài doanh nghiệp lớn) thì các doanh nghiệp vàng Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài nếu chưa có sự hỗ trợ về chính sách.
Mặt hàng vàng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước hiện chủ yếu là trang sức. Ảnh: Chí Hùng. |
Trong khi đó, các doanh nghiệp vàng bạc đá quý Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore… đang có nhiều lợi thế cạnh tranh như thuế nhập khẩu vàng nguyên liệu và thuế xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ đều ở mức 0%. Ngoài ra, các doanh nghiệp này còn được nhập khẩu vàng nguyên liệu và chi phí nhân công rẻ hơn, thiết bị công nghệ hiện đại hơn…
Hiện các chính sách vĩ mô của những quốc gia này cũng khuyến khích phát triển thị trường vàng bạc đá quý hơn so với Việt Nam.
Vì vậy, kim ngạch xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ của các quốc gia này đều cao hơn Việt Nam, như Thái Lan trên 10 tỷ USD; Singapore trên 8 tỷ USD; Indonesia trên 6 tỷ USD…
VGTA cho rằng dù có mức thuế xuất khẩu là 0% như hiện nay nhưng các doanh nghiệp kinh doanh vàng cũng nộp ngân sách nhiều khoản tiền thuế khác thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng… Trường hợp áp dụng mức thuế xuất khẩu 2% như dự thảo có thể khiến các doanh nghiệp ngừng xuất khẩu với các mặt hàng vàng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp vàng cũng cho rằng điều này có thể khiến hoạt động xuất khẩu vàng lậu qua biên giới tăng mạnh và rất khó kiểm soát.
Xuất khẩu hàng tấn vàng mỗi năm
VGTA cho rằng trong tầm nhìn ngắn hạn, Bộ Tài chính thấy cần hạn chế xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ có hàm lượng cao từ 95% trở lên, có thể giữ mức thuế xuất khẩu theo quy định hiện hành ở mức 0% đối với vàng trang sức mỹ nghệ có hàm lượng vàng từ dưới 95% trở xuống, còn vàng từ 95% trở lên thì áp dụng mức thuế 2% như dự thảo nghị định mới.
GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU VÀNG CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA | |||||
Nguồn: Tổng cục Hải quan, Hội đồng Vàng thế giới | |||||
Nhãn | Thái Lan | Singapore | Indonesia | Việt Nam | |
Giá trị xuất khẩu vàng | tỷ USD | 10 | 8 | 6 | 2.6 |
Trong văn bản gửi Bộ Tài chính, VGTA cũng cập nhật một số hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp vàng thành viên những năm gần đây.
Cụ thể, hiện các doanh nghiệp vàng lớn như Tập đoàn Vàng bạc Đá quý DOJI, Công ty CP Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận (PNJ); Công ty TNHH MTV VBĐQ Sài gòn (SJC), Tập đoàn Vàng bạc Đá quý Phú Quý… đều đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để thành lập nhà máy sản xuất theo quy mô lớn, sử dụng hàng vạn lao động và dần bắt kịp với các nước trong khu vực.
Tuy chưa thể so sánh với các nước trong khu vực nhưng trong năm 2019, các doanh nghiệp vàng trong nước đã xuất khẩu được 2,1 tỷ USD giá trị mặt hàng vàng, tăng 231,2% so với năm 2018. Giá trị xuất khẩu năm 2020 cũng đạt 2,6 tỷ USD.
Trong đó, riêng DOJI trong giai đoạn 2016-2020 đã xuất khẩu 53,8 tấn sản phẩm vàng kim hoàn, kỹ nghệ và thu về 2,5 tỷ USD.
Theo đánh giá của Hiệp hội Kinh doanh Vàng Việt Nam, ngành vàng bạc đá quý trong nước phát triển đã góp phần thúc đẩy các làng nghề kim hoàn, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung.
Vì vậy, VGTA cho rằng các doanh nghiệp trong ngành cũng cần được hỗ trợ từ các chính sách để tăng tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.