|
|
Cách nói chuyện của người Nam bộ thường chân chất, mộc mạc. Ảnh: Nguyễn Thắng/ Báo ảnh Việt Nam. |
Tiếng nói miền Nam được văn hóa "sông nước, ruộng vườn" bồi đắp nên có nét duyên dáng đặc trưng. Trong Chữ nghĩa tiếng Việt và bản sắc ngôn ngữ Nam bộ, TS Huỳnh Công Tín lý giải cách những hình ảnh quen thuộc của miền sông nước đi vào lời ăn tiếng nói hàng ngày, tạo nên sự chân chất, mộc mạc trong giao tiếp của người miền Nam.
Sách là công trình nghiên cứu của TS Huỳnh Công Tín về những nét đặc trưng của vùng sông nước và người dân nơi đây trong lao động sản xuất, sinh hoạt văn hóa, phong tục, tập quán… Tác phẩm phác họa diện mạo sinh động của phương ngữ Nam bộ trên phương diện văn hóa và ngữ âm.
Văn hóa sông nước miền Nam
Nếu phương ngữ Bắc bộ gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam thì phương ngữ Nam bộ được hình thành vào đầu thế kỷ 17, sau khi người Việt từ miền Bắc và miền Trung di cư vào miền Nam. TS Huỳnh Công Tín cho biết tác động của hoàn cảnh xã hội và điều kiện tự nhiên tạo nên sự khác biệt giữa hai phương ngữ này.
Trước hết là cách gọi tên, định danh một số đồ vật, vật dụng, sự vật, hoạt động, tính chất trong đời sống thường nhật gắn liền với thực tại địa phương như bát/chén, đĩa/dĩa, chăn/mền, màn/mùng… Hiện tượng này do biến âm, biến thanh hoặc vay mượn theo từ phiên âm nước ngoài tạo thành.
|
| Phương ngữ Nam bộ gắn liền với những hình ảnh quen thuộc trong đời sống của người dân. Ảnh: Shutterstock. |
Cách xưng hô của hai phương ngữ cũng có những đặc điểm riêng. Người Bắc bộ có thói quen gọi “bác” với những ai lớn tuổi hoặc có thứ bậc, vai vế lớn trong họ hàng hoặc trong xã hội. Với người miền Nam, người trong gia đình thì dựa theo thứ bậc, họ hàng bên nội, ngoại mà có cách gọi khác nhau: bác, chú, cô; cậu, dì… Con cái trong gia đình miền Nam được tính từ “thứ hai” cho đến “út”, không có “con cả” như trong gia đình miền Bắc.
Theo nhà nghiên cứu, cách diễn đạt của người dân vùng đồng bằng Nam bộ phản ánh văn hóa “sông nước, ruộng vườn”. Họ dùng những hình ảnh, hoạt động, tính chất liên quan đến sông ngòi, kênh rạch, cây lúa, các hoạt động nông nghiệp… để so sánh hoặc tạo lối nói ẩn dụ, hoán dụ. Những ý biểu đạt này thường có sắc thái biểu cảm, giàu tính tượng hình.
Ví dụ, thành ngữ “ăn như xáng múc, làm như lục bình trôi” châm biếm những người tham ăn, lười biếng bằng cách so sánh hai hình ảnh đối lập là “xáng múc” (phương tiện di chuyển dưới nước, dùng để đào kênh vét bùn) và “lục bình trôi”.
Hiện tượng “chìm xuồng” được dùng để chỉ một vụ việc tiêu cực bị bưng bít, giống với hình ảnh chiếc xuồng khi chìm thường bị nước cuốn trôi, không còn dấu vết nào. “Chụp ếch” nói về người bị té do đi trên đường trơn trượt. Cách diễn đạt này dựa trên sự liên tưởng của động tác chụp ếch, mang sắc thái vui vẻ, hài hước.
“Nói lái”
TS Huỳnh Công Tín cho biết nói lái là hiện tượng phổ biến trong giao tiếp tiếng Việt, được người dân miền Nam sử dụng rộng rãi do thói quen phát âm nơi đây. Hiện tượng này là sự hoán chuyển phần ngữ âm giữa hai đơn vị bất kỳ. Bên cạnh đó, phương ngữ Nam bộ có nhiều từ đồng nhất về âm, tạo nên những liên tưởng đa dạng về nghĩa của từ được nói lái.
Kết cấu âm tiết tiếng Việt thông thường gồm ít nhất ba bộ phận: âm đầu, phần vần và thanh điệu. Với từ có hai âm tiết, ba bộ phận trong từng âm tiết có thể đổi vị trí cho nhau để tạo thành những âm tiết mới. Ví dụ, từ “cái bàn” có thể đổi thành 6 từ khác: bái càn (đổi âm đầu), càn bái (đổi phần vần), cài bán (đổi thanh điệu), bài cán (đổi âm đầu và phần thanh điệu), cán bài (đổi phần vần và thanh điệu), bán cái (đổi âm đầu và phần vần).
|
| Chữ nghĩa tiếng Việt và bản sắc ngôn ngữ Nam bộ phác họa diện mạo sinh động của tiếng nói miền Nam trên phương diện văn hóa và ngữ âm. Ảnh: Khánh Linh. |
Với những tổ hợp từ trên hai âm tiết, hiện tượng nói lái chỉ diễn ra ở hai âm tiết là âm tiết khởi đầu và kết thúc của tổ hợp, còn lại được giữ nguyên. Ví dụ, “hộp nữ trang” có thể nói lái thành “hang nữ trộp”, “lì một lam” là kết quả nói lái của cụm “làm một ly”...
Xét về nội dung ngữ nghĩa, có hai trường hợp là nói lái có nghĩa và nói lái vô nghĩa. TS Huỳnh Công Tín chỉ ra những từ nói lái có nghĩa mới được sử dụng phổ biến trong giao tiếp. Đa phần các trường hợp nói lái có nghĩa thì nét nghĩa và sắc thái không giống với từ ban đầu.
Trong đó, những từ thuộc trường hợp nói lái có nghĩa, đúng chính tả, đúng nghĩa như “đá chanh” thành “đánh cha”, “ít ly” thành “y lít”, “ống sáo” thành “áo sống”... Trường hợp này có thể tạo thành hiện tượng nói lái xuôi - ngược, theo hướng nào cũng được.
Những từ thuộc trường hợp nói lái có nghĩa, không đúng chính tả, không đúng với nghĩa của từ viết như “cao đẳng” thành “cẳng đao” (cẳng đau hay chân đau), “đi tắm” thành “đăm tí”...
Bên cạnh đó, một số trường hợp nói lái có nghĩa đặc biệt, cần cân nhắc hoàn cảnh sử dụng sao cho phù hợp:
Trường hợp tạo thành hiện tượng phản nghĩa như “bí mật - bật mí” (giữ kín thông tin - để lộ thông tin), “lộng kiếng - liệng cống” (cất giữ trân trọng - vứt bỏ coi thường), “ít ly - y lít” (tửu lượng thấp - tửu lượng cao). Hiện tượng này thể hiện sự tinh nhạy trong việc sử dụng, nhận thức ngôn từ.
Trường hợp tạo thành hiện tượng có nghĩa không đứng đắn, mang sắc thái tiêu cực. Cũng có trường hợp tạo thành hiện tượng có nghĩa không được trong sáng, thô tục.
Phương ngữ của vùng miền không chỉ phản ánh đời sống tự nhiên, lịch sử và văn hóa của nơi đó mà còn cho thấy sức sáng tạo của người Việt Nam. Chính sự khác biệt đó đã góp phần tạo nên một bức tranh ngôn ngữ phong phú và sống động của đất nước.
Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức - Znews
Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức - Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: books@znews.vn. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.
Trân trọng.