Việt Nam khiến Mỹ lập “Chồn hoang”
“Chồn hoang” là tên gọi của các phân đội đặc biệt thuộc Không quân Mỹ. Các biệt đội này có nhiệm vụ tiêu diệt tổ hợp tên lửa phòng không và radar của đối phương.
Lần đầu tiên, dữ liệu về các đơn vị này được tiết lộ trong chiến tranh tại Việt Nam. Trên thực tế, kể từ đó đến nay, không có bất kỳ chiến dịch quân sự quy mô nào lại không có sự tham gia của các đơn vị này.
Điều này không lạ bởi việc tiêu diệt hoặc buộc các trạm radar mặt đất của đối phương phải “im lặng” sẽ bảo đảm sự thống trị trên không và an toàn cho các chuyến bay.
Một chiếc F-105G mang theo tên lửa diệt radar AGM-45 Shrike và AGM-78B Standard.
Chiến tranh tại Việt Nam chính là cuộc chiến đầu tiên mà Không quân Mỹ phải đối đầu với hệ thống phòng không nhiều tầng được xây dựng trên cơ sở các tổ hợp tên lửa phòng không. Đặc biệt, việc Việt Nam sở hữu số lượng lớn các tổ hợp tên lửa phòng không của Liên Xô là một bất ngờ khó chịu và buộc người Mỹ phải tìm cách vượt qua.
Các biện pháp khả thi của Không quân Mỹ khi đó là chuyển sang bay thấp và cực thấp (nhưng ở độ cao này pháo phòng không lại hoạt động rất mạnh) và gây nhiễu ồ ạt. Để gây nhiễu, Mỹ đã sử dụng những máy bay chuyên dụng để vượt qua hệ thống phòng không của Việt Nam.
Chương trình chế tạo máy bay vượt hệ thống phòng không mà Mỹ thực hiện mang tên Wild Weasel (Chồn hoang). Sau đó, cái tên này đã được đặt cho chính các máy bay được cải tiến trong khuôn khổ chương trình này.
Trong giai đoạn 1, được khởi động từ năm 1965, người Mỹ đã sử dụng loại tiêm kích F-100 Super Sabre vốn được chế tạo trước đó 10 năm. Đây cũng là mẫu máy bay siêu thanh đầu tiên của Không quân Mỹ. Phiên bản F-100F hai chỗ ngồi đã trở thành nòng cốt của lực lượng “Chồn hoang” khi mới thành lập.
Máy bay này có thể phát hiện trạm radar của đối phương nhờ các cảm biến bức xạ đặc biệt (QRC-380). Sau khi bắt được radar đối phương, sĩ quan kỹ thuật sẽ chỉ thị vị trí và phi công sẽ tấn công khi tổ hợp tên lửa phòng không đối phương xuất hiện trong tầm nhìn.
Tuy nhiên, F-100F không đủ tốc độ để theo kịp các máy bay hiện đại thời bấy giờ là F-4 Phantom II và F-105 Thunderchief. Vì vậy, trong giai đoạn 2, người Mỹ đã sử dụng máy bay “Chồn hoang” được cải tiến trên cơ sở F-105.
Một chiếc F-105G trên bầu trời Việt Nam năm 1968.
Các máy bay chuyên dụng EF-105F bắt đầu xuất hiện từ năm 1966 và sau đó chúng được thay thế bằng những chiếc F-105G hiện đại hơn. Tuy nhiên, việc Mỹ ngừng sản xuất F-105 từ năm 1964 đã khiến việc cải tiến loại máy bay này bị hạn chế. Một nguyên nhân khác phải kể đến là số lượng loại máy bay này bị Việt Nam “bắn rụng” quá cao.
Theo các số liệu công khai, có tổng số 382 chiếc F-105 các loại của Mỹ bị Việt Nam bắn rơi (chiếm gần một nửa trong tổng số 833 chiếc được Mỹ sản xuất).
Trong các giai đoạn tiếp theo (4 và 5), Mỹ chuyển sang sử dụng tiêm kích F-4 Phantom II với các phiên bản EF-4C Wild Weasel IV và F-4G Wild Weasel V.
Phương thức “săn mồi”
Trong chiến tranh tại Việt Nam, các biệt đội “Chồn hoang” hoạt động với 2 phương thức: đi cùng cụm tấn công của Không quân Mỹ hoặc hoạt động “săn mồi” tự do.
Khi đi cùng cụm tấn công, các máy bay “Chồn hoang” sẽ là những chiếc đầu tiên xâm nhập vùng phòng không của Việt Nam và lưu lại trong thời gian diễn ra đòn tấn công chủ lực nhằm chế áp toàn bộ các vị trí của các tổ hợp tên lửa phòng không mặt đất. Những máy bay này chỉ bay khỏi khu vực sau khi các máy bay tấn công đã “chuồn” trước. Phương châm của các biệt đội “Chồn hoang” chính là “đến trước, về sau”.
Khi “đi săn” tự do, “Chồn hoang” hoạt động theo nhóm “thợ săn - sát thủ”.
Ví dụ, một chiếc F-105F (thợ săn) có thể tách ra tương đối xa khỏi cụm 3-4 chiếc F-105D hoặc F-4 (sát thủ) để hoạt động đơn lẻ. Đôi khi, Mỹ sử dụng một nhóm 2 “thợ săn” và 2 “sát thủ”. Chiếc máy bay đi đầu sẽ tìm kiếm vị trí các tổ hợp tên lửa phòng không của đối phương và tấn công, đánh dấu vị trí cho các máy bay còn lại và sau đó đồng loạt tấn công tiêu diệt.
F-4C Wild Weasel IV tại căn cứ không quân Korat ở Thái Lan năm 1972.
Trong mỗi giai đoạn, “Chồn hoang” lại được trang bị các loại vũ khí và thiết bị hiện đại hơn như tên lửa có điều khiển tấn công theo bức xạ radar. Sau Chiến tranh Việt Nam, các biệt đội “Chồn hoang” tiếp tục phục vụ tại Tây Âu và Viễn Đông, nơi Mỹ “có việc” với hệ thống phòng không của Liên Xô.
Trong những năm 1990, những chiếc “Chồn hoang” cuối cùng đã bị loại khỏi biên chế. Sau đó, Mỹ quyết định sử dụng những chiếc tiêm kích đa năng F-16C cải tiến cho nhiện vụ của “Chồn hoang” với tên gọi F-16CJ Wild Weasel. Đây là mẫu cải tiến từ những chiếc F-16C Block 50 (50D/52D) và được sử dụng để thay thế những chiếc F-4G Wild Weasel.
Đặc biệt, F-16CJ có khả năng sử dụng tên lửa có điều khiển AGM-88 HARM và hệ thống AN/ASQ-213 HARM (HTS) để tiêu diệt và chế áp hệ thống phòng không đối phương. Những chiếc F-16CJ đã được Mỹ sử dụng trong cuộc chiến Nam Tư năm 1999.
Máy bay F-16CJ của Mỹ.
Người Mỹ đã sử dụng nhiều loại máy bay khác nhau cho nhiệm vụ chế áp hệ thống phòng không của đối phương, từ EF-10D Skyknight cho tới EA-6A và EA-6B Prowler. Hiện nay, Hải quân Mỹ vẫn chủ yếu “trông chờ” vào những chiếc EA-18G Growler (thay thế những chiếc EA-6B) được cải tiến từ những chiếc F/A-18F Super Hornet phiên bản 2 chỗ ngồi.