Cụ thể, sau khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính cùng các hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước năm 2016 tại Tổng Công ty cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội (Habeco) và các đơn vị thành viên, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đã có kiến nghị doanh nghiệp này nộp thêm 1.847 tỷ đồng vào ngân sách Nhà nước.
Khoản khác phải nộp lên tới 1.392 tỷ đồng
Theo KTNN, trong số 1.847 tỷ đồng kiến nghị tăng nộp bao gồm gần 4,5 tỷ đồng tiền tăng nộp thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt cũng bị kiến nghị nộp thêm hơn 441 tỷ đồng; thuế thu nhập doanh nghiệp hơn 9 tỷ đồng và thuế thu nhập cá nhân tăng nộp là 381 triệu đồng.
Ngoài ra, các khoản phải nộp khác là gần 1.392 tỷ đồng và tổng công ty này được kiến nghị giảm các khoản phải thu NSNN gần 5,8 tỷ đồng.
Theo kết quả kiểm toán tại Habeco, năm 2016 doanh thu của tổng công ty mẹ đạt gần 7.676 tỷ đồng, tăng hơn 12% (tương ứng 844 tỷ đồng) so với năm 2015. Trong đó, với việc bán được 529,9 triệu lít bia đã mang về cho Habeco 6.629 tỷ đồng doanh thu cùng với thu từ bán vật tư, nguyên liệu là 1.037 tỷ đồng và doanh thu từ kinh doanh khác là hơn 9,5 tỷ đồng.
Kết quả kinh doanh tăng tốt so với năm 2015 nhờ Habeco đã quản lý doanh thu và thu nhập tốt nhờ việc tự sản xuất bia và hợp đồng mua bia thành phẩm của các công ty con, giá mua đã bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt.
Toàn bộ sản phẩm bia chai, bia lon được bán cho Công ty TNHH MTV Thương mại Habeco và toàn bộ bia hơi bán cho Công ty cổ phần Thương mại Bia Habeco. Sau đó, 2 công ty này trực tiếp bán sản phẩm ra thị trường.
Hàng loạt sai sót, vi phạm quản lý và sử dụng vốn
KTNN cũng chỉ ra một số sai sót trong quản lý và sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại tổng công ty này.
Cụ thể, Habeco đã không thực hiện mua nguyên vật liệu chính thông qua đấu thầu mà thực hiện chào hàng cạnh tranh cho lô hàng trên 5 tỷ đồng. Điều này đã vi phạm quyết định do chính tổng công ty này đặt ra trước đó.
Ngoài ra, Habeco cũng không tổ chức đấu thầu mua nguyên liệu Malt mà chỉ chào hàng hạn chế, rồi chọn giá chào thấp nhất để làm giá mua. Số lượng mua cũng không tập trung vào một nhà cung cấp có giá thấp nhất mà lại phân bổ cho nhiều nhà cung cấp theo giá thấp nhất.
Theo KTNN, điều này đã làm hạn chế tính cạnh tranh và tiềm ẩn nhiều rủi ro thông đồng giữa các nhà cung cấp.
Habeco bị Kiểm toán Nhà nước chỉ ra hàng loạt vi phạm trong công tác quản lý và sử dụng vốn. |
Một vấn đề khác được KTNN chỉ ra là việc phân bổ sản lượng bia gia công cho các đơn vị thành viên. Về nguyên tắc, Habeco phải thực hiện dựa trên kế hoạch tiêu thụ, năng lực sản xuất, tình hình thực tế… Nhưng doanh nghiệp này lại chưa có tài liệu thuyết minh cho việc phân bổ này.
Đặc biệt, KTNN còn phát hiện việc phân bổ chỉ tiêu sản xuất cho các đơn vị thành viên của Habeco có sự khác biệt rất lớn giữa năng lực sản xuất với sản lượng được phân bổ.
Cụ thể, đối với nhóm công ty có hợp đồng chuyển giao bia hơi License (Li-xăng), đơn vị được phân bổ chỉ tiêu cao nhất là Công ty cổ phần Bia Hà Nội - Thái Bình với 47,2% công suất; đơn vị được phân bổ thấp nhất là Công ty cổ phần Bia Hà Nội - Hải Phòng với 12,3% công suất.
Trong khi đó, nhóm công ty không có hợp đồng chuyển giao lại được phân bổ chỉ tiêu sản xuất cao nhất 106,9% công suất tại Công ty cổ phần Habeco - Hải Phòng và thấp nhất là tại Công ty cổ phần Bia Thanh Hóa với 18,5% công suất.
Sai sót trong việc quản lý giá bán bia
KTNN cũng chỉ ra rằng Habeco chưa có sự liên hệ giữa giá mua với giá thành hay lợi nhuận của các công ty con. Việc xác định giá mua đều dựa trên cơ sở giá mua của năm trước được điều chỉnh theo yếu tố thuế hoặc giá đầu ra.
Trong khi đó, chính sách tiêu thụ sản phẩm của Habeco ban hành giá bán các sản phẩm cho 2 công ty phân phối ra thị trường vẫn còn nhiều thiếu sót.
Cụ thể, Công ty TNHH Thương mại Habeco bán bia lon/chai cho hệ thống các đại lý cấp 1 theo hình thức mua đứt bán đoạn và ràng buộc giá bán ra của đại lý cấp 1 không cao hơn 7% giá mua, nhưng thực tế lại chưa kiểm soát được giá bán ra.
Với bia hơi, hệ thống phân phối Habeco không có đối tượng "nhà phân phối", nhưng trong hợp đồng ký kết giữa các bên lại chấp thuận cho công ty được phép bán cho "nhà phân phối".
Năm 2016, Habeco thực hiện 8 hợp đồng li-xăng với 8 công ty trong hệ thống với sản lượng 68,5 triệu lít. Tại các hợp đồng này quy định các công ty phải bán với giá cao hơn giá sàn nhưng Habeco không thực hiện kiểm tra tình hình thực hiện giá bán, chỉ căn cứ vào báo cáo của các công ty. Vì vậy, giá báo cáo và giá bán thực tế có sự khác nhau nhưng không được kiểm tra và xử lý vi phạm theo quy định hợp đồng.
Nguồn: VNDirect. |