Bạn có thể chuyển sang phiên bản mobile rút gọn của Tri thức trực tuyến nếu mạng chậm. Đóng

Bệnh vảy nến nặng thêm vì nhiễm trùng, nhiễm khuẩn và nấm

Theo nhiều nghiên cứu, nhiễm trùng, nhiễm khuẩn và nấm làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh vảy nến, khiến bệnh hay tái phát và dễ biến thành mãn tính.

Nhiều trường hợp nhiễm virus có liên quan tới sự kích hoạt hay làm nặng hơn bệnh vảy nến, ví như như nhiễm streptococcus. Trong một số nghiên cứu, bệnh vảy nến xuất hiện sau khi bệnh nhân nhiễm virus herpes simplex (HSV). Trong khi đó, các trường hợp mắc bệnh vảy nến gây ra do virus khác (viêm gan siêu vi B và C…) có tỷ lệ thấp hơn.

Thời gian gần đây, một số trường hợp nhiễm virus human papilloma (HPV) gây khởi phát bệnh vảy nến muộn cũng đã được ghi nhận. Nhiễm chikungunya, HIV/AIDS, nhiễm CMV kéo dài và nhiễm virus varicella zoster cũng đã được báo cáo như là những yếu tố kích hoạt hoặc yếu tố làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh vảy nến.

Mối liên quan giữa nhiễm khuẩn với bệnh vảy nến được minh chứng rõ rệt nhất ở bệnh vảy nến thể giọt. Có nhiều báo cáo cho thấy tình trạng nặng cấp tính của vảy nến giọt ở đa số bệnh nhân xuất hiện sau bị nhiễm khuẩn streptococcus nhóm A. Nhiễm streptococcus pyogens cũng gây nên tình trạng tương tự.

chua benh vay nen bang phuong phap Dr Michaels anh 1
Giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ Michael Tirant tư vấn miễn phí cho bệnh nhân vảy nến.

 

Bệnh vảy nến thể giọt là một dạng cấp tính riêng biệt của vảy nến, thường xảy ra ở trẻ em và thanh niên. Sự liên quan giữa bệnh vảy nến thể giọt và streptococcus pyogenes đã được công nhận về mặt y khoa, tuy nhiên cơ chế chính xác vẫn chưa được rõ ràng.

Yếu tố kích hoạt do streptococcus và cơ sở gen di truyền của bệnh vảy nến khiến bệnh nhân có thể biểu lộ một sự nhạy cảm đặc biệt, được xác định bởi gen di truyền khi nhiễm streptopcoccus. Nhiễm streptococcus được tìm thấy nhiều ở nhóm bệnh nhân vảy nến có gen di truyền. Có đến 45% trường hợp vảy nến giọt, viêm hầu họng và nhiễm trùng hô hấp là yếu tố kích hoạt phổ biến nhất được ghi nhận.

Những nghiên cứu gần đây phát hiện ra rằng việc liên tục nhiễm streptococcus, staphylococcus trên cận lâm sàng không chỉ làm tái phát bệnh vảy nến giọt cấp tính mà còn làm bùng phát thể giọt thành thể mảng mãn tính. Vì có tới 70% bệnh nhân vảy nến thể giọt tiếp tục phát triển thành bệnh thể mảng mãn tính.

chua benh vay nen bang phuong phap Dr Michaels anh 2
Kết quả điều trị bệnh vảy nến thể giọt bằng phương pháp Dr Michaels trong 8 tuần.

 

Một nghiên cứu năm 2014 đã kết luận: siêu kháng nguyên và độc tố từ nấm candida có thể tác động khác nhau trong việc làm trầm trọng và kéo dài bệnh vảy nến. 60% bệnh nhân vảy nến xét nghiệm dương tính với candida so với tỷ lệ 20% của nhóm đối chứng trong thử nghiệm ở miệng. 15% bệnh nhân vảy nến có kết quả dương tính so với 4% của nhóm đối chứng trong thử nghiệm ở da. Sự liên quan giữa vảy nến và sự khu trú của candida albicans ở da và/hoặc ở ruột đã được khẳng định lại trong một nghiên cứu khác vào năm 2015.

Sự tác động của nhóm malassezia với bệnh vảy nến vẫn chưa được xác định. Nhưng nhiều báo cáo đã kết hợp những nấm men ưa mỡ này với sự phát triển của sang thương da trong bệnh vảy nến. Nấm men ưa mỡ malassezia furfur đã được chứng minh làm nặng thêm vảy nến da đầu.

Những phát hiện này gợi ý rằng có nhiều cơ chế mà qua đó nấm malassezia làm nặng thêm vảy nến, nhưng vẫn chưa rõ liệu những vi sinh vật này có thể khởi đầu sự phát triển của sang thương vảy nến hay không. Vảy nến là bệnh có thành phần di truyền mạnh. Do đó, các nhà khoa học đã nghiên cứu phản ứng miễn dịch ở bệnh nhân vảy nến. Kết quả cho thấy những bệnh nhân này có đáp ứng miễn dịch với nấm malassezia và protein có nguồn gốc từ chúng. Tế bào T phản ứng với nấm đã được phân lập từ sang thương da. Kết quả cho thấy kháng thể kháng nấm đã hiện diện trong huyết thanh của bệnh nhân vảy nến, nhưng không hiện diện ở những đối tượng thuộc nhóm đối chứng.

Hệ thống phòng khám chuyên khoa Dr Michaels Psoriasis & Skin Clinic tại 87 Trần Não, quận 2, TP HCM và 114A Mai Hắc Đế, Hà Nội.

Phòng khám áp dụng phương pháp Dr Michaels: sử dụng các loại thảo dược để điều trị các bệnh vảy nến, viêm da cơ địa và nhiều bệnh da liễu khác. Phòng khám được áp dụng theo tiêu chuẩn, phác đồ tương tự các phòng khám chuyên khoa Dr Michaels tại Australia, châu Âu với nguồn thảo dược được sản xuất, nhập khẩu từ Australia. Phương pháp Dr Michaels do giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ Michael Tirant (người Australia) phát triển hơn 30 năm qua và được thừa nhận rộng rãi trong điều trị vảy nến, viêm da cơ địa và nhiều bệnh da liễu khác.

Các thử nghiệm lâm sàng cũng như các nghiên cứu đánh giá y học tại nhiều nước châu Âu đã chứng minh phương pháp Dr Michaels đạt hiệu quả cao, an toàn và không có tác dụng phụ, ngay cả với trẻ em và phụ nữ có thai.

Sơn Trà

Bạn có thể quan tâm